Luật Quản lý thuế (sửa đổi): Thay đổi tư duy, hiện đại hóa công tác thuế
(CLO) Sau hơn 5 năm thực thi, Luật Quản lý thuế 2019 đã góp phần hiện đại hóa công tác thu thuế, nhưng cũng bộc lộ nhiều bất cập trước sự phát triển nhanh của kinh tế số và yêu cầu cải cách thể chế. Dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) đang được lấy ý kiến nhằm chuyển đổi mạnh mẽ tư duy từ “quản lý” sang “phục vụ”, lấy người nộp thuế làm trung tâm.
Sửa đổi Luật Quản lý thuế: Yêu cầu tất yếu từ thực tiễn và xu thế toàn cầu
Chiều 16/9/2025, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tổ chức hội thảo lấy ý kiến doanh nghiệp về Dự thảo Luật Quản lý thuế do Bộ Tài chính chủ trì soạn thảo.

Phát biểu tại Hội thảo ông Đặng Ngọc Minh, Phó Cục trưởng Cục Thuế (Bộ Tài chính) khẳng định: “Luật Quản lý thuế 2019 là cơ sở pháp lý quan trọng, có phạm vi tác động trên cả nước đối với toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức, cá nhân”.
Đánh giá những tác động tích cực của Luật Quản lý thuế 2019, ông Đậu Anh Tuấn nhận định, Luật Quản lý thuế 2019 đã tạo ra những bước tiến rõ nét trong việc hiện đại hóa công tác quản lý thuế, mở rộng cơ sở thu và nâng cao hiệu quả thu ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, cả cơ quan quản lý và cộng đồng doanh nghiệp đều cho rằng, luật cũng đã bộc lộ một số hạn chế cần được sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Theo Bộ Tài chính, một số quy định hiện hành chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chưa tương thích với các luật chuyên ngành và thiếu tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Đáng chú ý, kể từ khi luật có hiệu lực năm 2020, Quốc hội đã ban hành nhiều luật và nghị quyết mới (từ 2021 đến nay) có ảnh hưởng trực tiếp đến lĩnh vực quản lý thuế, làm phát sinh khoảng trống hoặc chồng chéo trong thực thi.
Ngoài ra, xu hướng cải cách thuế toàn cầu hiện nay đặt trọng tâm vào chuyển đổi số, số hóa giao dịch và ứng dụng công nghệ trong quản lý thuế. Trong khi đó, tại Việt Nam, chủ trương xóa bỏ cơ chế khoán thuế đối với hộ kinh doanh theo Nghị quyết số 68-NQ/TW đòi hỏi thay đổi mạnh mẽ phương thức quản lý, chuyển sang cơ chế tự khai, tự nộp, ghi sổ kế toán và hóa đơn đầy đủ. Những chuyển động này càng làm rõ tính cấp thiết phải sửa đổi Luật Quản lý thuế theo hướng toàn diện, hiện đại, đồng bộ hơn.
Đồng quan điểm, ông Đậu Anh Tuấn nhấn mạnh: Trong bối cảnh nền kinh tế số phát triển nhanh, giao dịch xuyên biên giới gia tăng, cùng sự xuất hiện của các mô hình kinh doanh mới như thương mại điện tử, tài sản số, AI, hệ thống pháp luật thuế cần được cập nhật kịp thời để đáp ứng yêu cầu thực tiễn và hội nhập.
Khẳng định tầm quan trọng của việc sửa đổi luật, Phó Cục trưởng Cục Thuế (Bộ Tài chính) Đặng Ngọc Minh, cho rằng: Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới, yêu cầu hoàn thiện thể chế – đặc biệt là thể chế quản lý thuế – trở thành nhiệm vụ cấp bách và then chốt.
“Sự bùng nổ của nền kinh tế số với những loại hình kinh doanh mới, xu thế số hóa giao dịch, yêu cầu chuyển đổi số quốc gia, yêu cầu cải cách cắt giảm thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ cho người nộp thuế đã đặt ra yêu cầu tất yếu phải sửa đổi Luật Quản lý thuế một cách toàn diện” - ông Minh nói.

Đổi mới quản lý thuế: Lấy người nộp thuế làm trung tâm
Phó Cục trưởng Cục Thuế Đặng Ngọc Minh cho biết, hồ sơ dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi) đã được Bộ Tư pháp thẩm định và trình Chính phủ. Theo đó, định hướng xây dựng luật tập trung vào các nội dung mang tính nguyên tắc, thuộc thẩm quyền của Quốc hội, đồng thời tạo hành lang pháp lý để Chính phủ và Bộ Tài chính hướng dẫn các nội dung cụ thể theo chức năng, nhiệm vụ được phân công.
Việc sửa đổi lần này nhằm thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng tại các Nghị quyết số 57-NQ/TW, 59-NQ/TW, 66-NQ/TW và 68-NQ/TW. Trọng tâm là chuyển đổi số, hiện đại hóa hệ thống thuế, ứng dụng công nghệ, dữ liệu lớn, AI vào quản lý; đồng thời chuyển từ mô hình quản lý theo chức năng sang mô hình quản lý theo đối tượng kết hợp chức năng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả và hiệu năng quản lý.
Đặc biệt, định hướng sửa đổi luật lần này nhấn mạnh việc chuyển tư duy từ “quản lý” sang “phục vụ”, lấy người nộp thuế làm trung tâm. Theo đó, cơ quan thuế sẽ tăng cường hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy tuân thủ tự nguyện, dựa trên phân loại mức độ rủi ro và mức độ tuân thủ pháp luật của người nộp thuế. Cùng với đó là đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí tuân thủ, và đẩy mạnh các giải pháp chống thất thu.

Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký VCCI, khẳng định: Luật Quản lý thuế là đạo luật có tính nền tảng trong hệ thống pháp luật thuế của Việt Nam. Nếu các luật thuế chuyên ngành quy định đối tượng và mức thuế, thì Luật Quản lý thuế là “luật thủ tục”, điều chỉnh toàn bộ quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế – từ đăng ký, kê khai, nộp thuế, hoàn thuế, miễn giảm đến kiểm tra, cưỡng chế, khiếu nại. Do đó, luật có tác động trực tiếp đến thời gian, chi phí tuân thủ và mức độ thuận tiện của doanh nghiệp và người dân.
Đại diện VCCI đồng tình với định hướng chuyển đổi tư duy trong sửa luật lần này, đặc biệt là việc thể chế hóa nguyên tắc quản lý thuế hiện đại dựa trên quản lý rủi ro, tuân thủ, bản chất kinh tế của giao dịch, và ứng dụng công nghệ số trong điều hành. Dự thảo luật cũng đặt ra định hướng phân cấp, phân quyền, thiết lập cơ chế quản lý thuế số, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế và chuyển đổi số quốc gia.
Về nội dung cụ thể trong dự thảo, ông Đậu Anh Tuấn đánh giá cao quy định tại Điều 3, 5 và 34 về phân loại người nộp thuế theo rủi ro và mức độ tuân thủ, coi đây là bước đi quan trọng trong tiến trình quản lý thông minh, giúp tối ưu hóa nguồn lực nhà nước và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tuân thủ tốt. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý, để bảo đảm tính minh bạch và công bằng, Bộ Tài chính cần sớm công khai các tiêu chí phân loại, quy trình đánh giá rủi ro, tránh gây tâm lý e ngại hoặc hoang mang trong cộng đồng doanh nghiệp.
Một điểm đáng chú ý khác trong dự thảo là việc xóa bỏ hình thức thuế khoán đối với hộ kinh doanh từ năm 2026 (theo Điều 13), thực hiện theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW. Đây là bước đi cần thiết để đảm bảo công bằng trong chính sách thuế và ngăn ngừa thất thu ngân sách. Tuy nhiên, ông Tuấn cho rằng cần có lộ trình hợp lý và các chính sách hỗ trợ song hành. Trong đó, đặc biệt chú trọng việc đơn giản hóa chế độ kế toán, kê khai thuế phù hợp với năng lực thực tế của hộ kinh doanh, tránh gây áp lực hoặc khiến họ rút lui khỏi thị trường.