Mặt trận Việt Minh: Khi hơn 20 triệu người Việt chung một ý chí…
(NB&CL) Khi nhìn lại những nhân tố quan trọng nhất mang lại thành công cho tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, các chuyên gia đều nhắc đến Mặt trận Việt Minh. Dưới sự tập hợp, lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh, hơn 20 triệu người Việt đã đồng lòng, nhất tề đứng lên làm nên cuộc tổng khởi nghĩa “long trời, lở đất” giành lại độc lập, tự do cho đất nước.
KỶ NIỆM 80 NĂM THÀNH LẬP NƯỚC (2/9/1945-2/9/2025)
Toàn dân hợp lực, đồng lòng cho nền độc lập
Cách mạng Tháng Tám và nền độc lập được tạo dựng cách đây tròn 80 năm đã là minh chứng cho sức mạnh của sự hợp lực, đồng lòng của toàn dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết- sức mạnh truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt đã kết tinh thành lực lượng quật khởi của toàn dân để rồi làm nên thắng lợi huy hoàng của cuộc tổng khởi nghĩa, mang đến mùa thu độc lập năm 1945. Loạt bài viết dưới đây sẽ phần nào làm rõ hơn nguồn sức mạnh ấy.
“Nếu chúng ta đoàn kết chúng ta sẽ trở nên đáng gờm”
Đó đã là điều được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc- Chủ tịch Hồ Chí Minh chiêm nghiệm từ hành trình bôn ba tìm đường cứu nước. Người từng nói: “Bọn đế quốc áp bức chúng ta và đối xử với chúng ta như loài vật, đó là vì chúng ta không đoàn kết. Nếu chúng ta đoàn kết chúng ta sẽ trở nên đáng gờm”.
Từ sự chiêm nghiệm ấy, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sau này, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc- Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định đại đoàn kết dân tộc là phương thức, là sức mạnh và là mục tiêu quan trọng nhất của cách mạng Việt Nam, đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ và lâu dài toàn dân tộc thành một khối, đoàn kết dân tộc kết hợp với đoàn kết quốc tế sẽ tạo ra sức mạnh to lớn để chiến thắng mọi kẻ thù. Trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức (1925), Người kêu gọi: “Hỡi các bạn thân yêu, chúng ta nên sớm kết đoàn lại! Hãy hợp lực để đòi quyền lợi và tự do của chúng ta! Hãy hợp lực để cứu lấy nòi giống chúng ta!”.

Cũng từ nhận diện rất rõ sức mạnh của đại đoàn kết, tháng 2/1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ngay trong “Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt”, Đảng đã vạch ra yêu cầu phải tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc và chỉ rõ sự cần thiết phải xây dựng một Mặt trận Dân tộc thống nhất nhằm đoàn kết các giai tầng trong xã hội, các tổ chức chính trị, các cá nhân phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh mọi nhân tố của dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp chung giải phóng dân tộc.
Ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng minh - hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chỉ thị nhắc lại đường lối chiến lược và sách lược mà Luận cương cách mạng tư sản dân quyền của Đảng đã nêu rõ: Nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến phải kết hợp chặt chẽ với nhau, công nhân và nông dân là hai động lực chính của cách mạng, công nhân phải liên minh chặt chẽ với nông dân thì cách mạng mới thắng lợi, nếu giai cấp công nhân không tổ chức được toàn dân thành một lực lượng thật rộng, thật vững thì cách mạng cũng khó thành công.
Ngày 18/11/1930, Hội Phản đế đồng minh (11/1930 - 3/1935) ra đời, đã là nơi phát huy truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc ta, nhân lên gấp bội tinh thần yêu nước của mọi người Việt Nam, đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận thành một lực lượng hùng mạnh để đánh đuổi bè lũ thực dân, đế quốc, giành lại độc lập cho Tổ quốc, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào.
Tới quyết nghị lịch sử tại Hội nghị Trung ương 8 (khóa I)
Với nhiều sử gia, năm Tân Tỵ 1941 là một năm đặc biệt của dân tộc Việt Nam. Bởi năm ấy, ngày 28/1 tức ngày mùng 2 Tết, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vượt qua cột mốc 108 trên biên giới Việt Nam - Trung Quốc, tại làng Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, trở về Tổ quốc sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước.
Cũng năm ấy, Hội nghị Trung ương lần thứ Tám tháng 5/1941 được triệu tập mang đến những quyết định mang tính bước ngoặt chiến lược cho cách mạng Việt Nam.

Thành quả lớn nhất từ Hội nghị tại Khuổi Nặm tháng 5/1941 là việc Hội nghị đã tiến hành phân tích một cách sâu sắc tình hình trong nước và thế giới, và đưa ra xác định rõ: Nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất của Cách mạng Đông Dương. Nhiệm vụ trước hết của Cách mạng Việt Nam lúc này là phải giành cho được độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho đồng bào.
Hội nghị đã ra Nghị quyết, trong đó chỉ rõ: Cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp: dân tộc giải phóng.
Hội nghị đã khẳng định: “Cuộc Cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”. Đây chính là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện thời. Dự kiến hình thức khởi nghĩa là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
Có thể nói, Hội nghị Trung ương lần thứ VIII tháng 5/1941 của Đảng ở Pác Bó (Cao Bằng) đã thực sự đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng, khẳng định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Và sự chỉ đạo chiến lược ấy nằm ngay từ quyết định thành lập mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi mang tên Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) “nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu nghèo, trẻ già, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”.
Từ quyết định ấy, ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh đã ra đời. Mặt trận Việt Minh lấy lá cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh làm huy hiệu, khẩu hiệu chính là: phản Pháp - kháng Nhật - liên hoa - độc lập.
Ngày 25/10/1941, Tổng bộ Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ, nói rõ tôn chỉ, mục đích của mình: “Liên hiệp hết các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đặng cùng nhau đánh đuổi Nhật, Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.
“Việt Minh kết nạp từng đoàn thể, không cứ đảng phái, đoàn thể nào của người Việt Nam hay của các dân tộc thiểu số sống trong nước Việt Nam, không phân biệt giai cấp, tôn giáo và xu hướng chính trị”- điều lệ Việt Minh ghi rõ.
Điều đặc biệt là, cùng với việc công bố Tuyên ngôn, Điều lệ, Mặt trận Việt Minh cũng xác định cụ thể chương trình cứu nước với hai mục tiêu rõ ràng: 1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập. 2. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng tự do. Chương trình gồm 44 điểm, sau được đúc kết lại thành “Mười chính sách của Việt Minh” và phổ biến trong Nhân dân, dễ hiểu, dễ nhớ: “Việt Nam độc lập đồng minh/ Có bản chương trình đánh Nhật, đánh Tây/ Quyết làm cho nước non này/ Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền/... Chúng ta có Hội Việt Minh/ Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh/... Khuyên ai nên nhớ chữ đồng/ Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”.

Mặt trận Việt Minh- Đánh thức tinh thần dân tộc
Thực tế phong trào cách mạng đã cho thấy, thành lập Mặt trận Việt Minh là một quyết định sáng suốt thời điểm đó khi đáp ứng đúng yêu cầu cấp thiết của phong trào đấu tranh cách mạng đang lên cao như triều dâng, thác đổ.
Kể từ khi Mặt trận Việt Minh ra đời, như khẳng định trong cuốn “Cách mạng tháng Tám của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương”, “toàn bộ phong trào chống phát xít Pháp - Nhật của nhân dân ta mang tên là Phong trào Việt Minh, cái tên tiêu biểu cho lòng yêu nước, chí quật cường của dân tộc ta”.
Sức mạnh và vai trò to lớn của Mặt trận Việt Minh được thể hiện ở khả năng lôi cuốn và tập hợp lực lượng quần chúng đứng lên đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Khẩu hiệu của Việt Minh, với tinh thần phản Pháp, kháng Nhật, liên Hoa, độc lập, Việt Minh lấy làng, đường phố, nhà máy làm cơ sở tổ chức và thu hút các đoàn thể tham gia đánh Pháp, đuổi Nhật; với tên gọi (Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc, v.v..), trong đó, có khẩu hiệu: “Kêu gọi đồng bào gia nhập Việt Minh và đoàn kết đánh đuổi Nhật - Pháp” nổi tiếng: “ĐỒNG BÀO! Dịp tốt sắp đến! Mau đoàn kết lại! Gia nhập Việt - Minh! Việt Nam độc lập đồng minh, đánh đuổi Nhật Pháp! tiêu trừ Việt gian! Việt - Nam độc lập! VIỆT MINH”, đã thu hút mọi giai tầng, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị, giai cấp tham gia Mặt trận với tinh thần yêu nước và đoàn kết, để chiến đấu giành độc lập cho xứ sở.
Lực lượng và sức mạnh của khối toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh được xây dựng rộng rãi và chặt chẽ chưa từng có trong cả nước.
Để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa đánh đuổi Nhật - Pháp, Việt Minh triển khai công tác tuyên truyền mạnh mẽ. Nhiều chỉ thị, lời kêu gọi và cả các truyền đơn của Tổng bộ Việt Minh được truyền đi tới các địa phương và phổ biến tới Nhân dân.
Ngày 25/1/1942, Báo Cứu Quốc, cơ quan của Tổng bộ Việt Minh ra số đầu tiên và phát hành cho khu vực từ Thanh, Nghệ, Tĩnh trở ra. Khắp các địa phương trong toàn quốc, các đoàn thể cứu quốc và Mặt trận Việt Minh lần lượt được thành lập.
Năm 1944, Đảng dân chủ Việt Nam, tiêu biểu cho tầng lớp tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức Việt Nam tham gia mặt trận.
Cùng với đó, các đội tự vệ cứu quốc, tự vệ chiến đấu được thành lập và được huấn luyện quân sự. Tháng 8/1944, Tổng bộ Việt Minh kêu gọi và phát động phong trào “sắm vũ khí đuổi thù chung”, phong trào xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa và chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Tháng 5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị sửa soạn khởi nghĩa.
Ngày 15/3/1945, Việt Minh ra lời kêu gọi kháng Nhật cứu nước: “...Tiến lên! Xông tới! Cứu nước, cứu nhà! Lấy máu đào rửa hận cho Tổ quốc...”
Ngày 25/3/1945, Việt Minh phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước trên khắp cả nước, Báo Cờ giải phóng số 11 (ngày 25/3/1945) đã đăng lời Hiệu triệu của các đoàn thể cứu quốc trong Việt Minh.
Ngày 14/8/1945, Tổng bộ Việt Minh ra lời Hiệu triệu quốc dân đồng bào nêu rõ: “Giờ Tổng khởi nghĩa đã đánh... Trước cơ hội có một không hai ấy, toàn thể dân tộc ta phải đem hết lực lượng, dùng hết can đảm, bao quanh đạo quân Giải phóng Việt Nam, tung xương máu ra đánh đuổi giặc Nhật, đổi lấy tự do, hạnh phúc cho nhân dân!... Thắng lợi nhất định sẽ về ta!”
Cả nước đã nhất tề đứng dậy tổng khởi nghĩa theo hiệu triệu của Việt Minh. Sáng ngày 19/8/1945, theo lời kêu gọi và thực hiện Chỉ thị của Việt Minh, cả Hà Nội vùng dậy dưới rừng cờ đỏ sao vàng với hàng nghìn nông dân, công nhân, dân nghèo, bằng những vũ khí thô sơ, cùng với hàng vạn quần chúng nhân dân ở khu vực ngoại thành kéo vào, xuống đường tiến thẳng về trung tâm Nhà hát thành phố.
Chỉ trong vòng 12 ngày, từ ngày 14 đến ngày 25/8/1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng và ngọn cờ của Việt Minh, hơn 20 triệu nhân dân ta từ Bắc đến Nam đã tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám thành công, giành chính quyền về tay nhân dân, trở thành cuộc tập hợp lực lượng khổng lồ mà truớc đó chưa từng có ở Đông Dương.
Như khẳng định của TS Nguyễn Viết Chức: “Cách mạng Tháng Tám thành công để lại nhiều bài học. Bài học quan trọng nhất chính là Đảng đã giao trách nhiệm lãnh đạo quần chúng nhân dân đứng lên giành chính quyền cho “người cộng sự” của mình- đó là Mặt trận Việt Minh”.
Sự ra đời của Mặt trận Việt Minh, sự góp mặt của lực lượng chính trị quần chúng… chính là lý do mà cuộc cách mạng mùa Thu năm 1945 còn được gọi bằng một cái tên khác “là cuộc cách mạng của nhân dân”.
Nói như nhà báo, Tiến sĩ Nhị Lê: “Đây là cuộc cách mạng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và chính đó là cội nguồn của cách mạng tháng Tám”. Hay như nhấn mạnh của GS Hoàng Chí Bảo: “Cuộc cách mạng tháng Tám ở nước ta năm 1945 là một minh chứng điển hình cho sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy được lòng yêu nước đó là một giá trị truyền thống rất quan trọng làm nên sức mạnh của cả dân tộc. Cuộc cách mạng ấy, lại khai sinh ra được một chính thể hoàn toàn thể hiện quyền lực của nhân dân sau ngót 1 thế kỷ bị nô lệ áp bức và cũng là hàng ngàn năm trong chế độ quân chủ phong kiến đã lỗi thời”.