'Mượn nợ khó, trả nợ càng khó': Doanh nghiệp và ngân hàng cùng mắc kẹt
(CLO) Doanh nghiệp, nhất là nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa đang gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận vốn ngân hàng. Tuy nhiên, ngay cả các tổ chức tín dụng cũng rất khó cho vay.
Tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm tới 98% tổng số doanh nghiệp
Theo báo cáo của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, tính đến cuối năm 2024, cả nước có 940.078 doanh nghiệp đang hoạt động. Bước sang quý I/2025, cả nước có thêm 72,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 18,6 % so với cùng kỳ năm 2024. Bình quân một tháng có hơn 24,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Tuy nhiên, cũng trong quý I năm nay, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là hơn 61,4 nghìn doanh nghiệp, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước; gần 11,5 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể; gần 5,9 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể. Bình quân một tháng có gần 26,3 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

TS Nguyễn Quốc Hùng, Phó Chủ tịch điều hành kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng cho rằng, trong bối cảnh thế giới ngày càng phức tạp, khó lường, đặc biệt là chính sách thuế quan của Mỹ, kèm theo các yếu tố của biến đổi khí hậu đã và đang ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp.
Vì vậy, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn ngân hàng mở rộng sản xuất kinh doanh, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có nhiều giải pháp, như chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm, thủy sản, chương trình cho vay nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ,....
Việc triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp trên đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế.
Theo đó, đến cuối năm 2024 tín dụng tăng 15,09% so với cuối năm 2023 và đạt mục tiêu đề ra, bổ sung thêm cho nền kinh tế 2,2 triệu tỷ đồng, doanh số cho vay 23 triệu tỷ đồng.
Đến 31/3/2025, tín dụng nền kinh tế đạt 16,23 triệu tỷ đồng, tăng 3,93% so với cuối năm 2024, cùng kỳ năm 2024 tăng 1,34% so với cuối năm 2023.
Tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm tới 98% tổng số doanh nghiệp, đến cuối tháng 2/2025 đạt 2,77 triệu tỷ đồng, tăng 0,97% so với cuối năm 2024, chiếm 17,62% dư nợ tín dụng nền kinh tế (cùng kỳ năm 2024 giảm 2,83% so với cuối năm 2023; cuối năm 2024 tăng 10,69% so với cuối năm 2023).
Mượn nợ khó, trả nợ càng khó
Theo TS Nguyễn Quốc Hùng, các doanh nghiệp hiện vẫn khó tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Đơn cử, hoạt động động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng lớn bởi khó khăn chung của nền kinh tế và ảnh hưởng bởi tác động tiêu cực của dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu. Nguồn lực của nhiều DN bị cạn kiệt dẫn tới việc không đủ điều kiện để vay vốn ngân hàng.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp có tài sản thế chấp gặp vướng mắc pháp lý, chưa có giấy chứng nhận, quy hoạch treo, tranh chấp…, dẫn đến không đáp ứng được điều kiện vay vốn.
Để được tiếp cận vốn vay ngân hàng, doanh nghiệp phải đáp ứng được điều kiện về tình hình tài chính minh bạch, lành mạnh. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp hiện nay không đáp ứng được các điều kiện trên.

“Phần lớn doanh nghiệp hiện nay là các doanh nghiệp nhỏ và vừa có quy mô nhỏ, năng lực tài chính, trình độ quản trị hạn chế, thiếu phương án kinh doanh khả thi, số liệu tài chính thiếu minh bạch, chính xác, Chứng từ kế toán không đáp ứng các chuẩn mực theo quy định nên ngân hàng khó xem xét cấp tín dụng”, ông Hùng nói.
Về phía các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng đối mặt với nhiều khó khăn khi cho vay. Ông Hùng cho biết, các TCTD không thể tự ý hạ tiêu chuẩn, giảm các quy định, điều kiện cho vay mà vẫn phải theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo quản trị rủi ro, an toàn hệ thống.
Đặc biệt, trong bối cảnh thực hiện quyết liệt các giải pháp cơ cấu lại hoạt động ngân hàng, các TCTD đang ngày càng đẩy mạnh áp dụng các chuẩn mực quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế, đòi hỏi ngày càng cao tính minh bạch.
Mặc dù các TCTD đã giảm lãi suất cho vay, song tốc độ tăng trưởng tín dụng tại các TCTD chưa cao, cùng với khó khăn từ thị trường vốn và thị trường bất động sản dẫn đến chất lượng tài sản ngân hàng suy giảm, nợ xấu tăng.
Trong khi đó, việc xử lý tài sản bảo đảm, thu hồi nợ gặp nhiều vướng mắc, nhiều khách hàng bất hợp tác, cá biệt có hiện tượng lập nhóm bùng nợ tràn lan trên mạng xã hội kêu gọi không trả nợ, nhất là nhóm khách hàng vay tiêu dùng.
“Việc xử lý nợ thông qua thủ tục tố tụng mất rất nhiều thời gian và chi phí và không có hiệu quả”, ông Hùng nhấn mạnh.
Ngoài ra, việc tiếp cận thông tin về các doanh nghiệp còn hạn chế do hiện nay các TCTD chủ yếu khai thác thông tin thông qua việc tìm hiểu trực tiếp doanh nghiệp và qua Trung tâm thông tin tín dụng (CIC), chưa khai thác được tối đa các thông tin từ các hiệp hội, ngành nghề, cơ quan thuế, cơ quan hải quan...
Trước những khó khăn nêu trên và để giúp doanh nghiệp vượt qua thách thức, TS Nguyễn Quốc Hùng đề nghị Chính phủ đẩy mạnh cải cách thể chế hơn nữa để giảm chi phí thực thi của doanh nghiệp.
Ông cho rằng, niềm tin của những người đầu tư vào trái phiếu thấp, vì vậy cần có cơ chế chính sách đẩy mạnh tăng cường thị trường vốn, tạo niềm tin cho thị trường phát triển, giảm áp lực vào nguồn vốn ngân hàng.
“Nguồn vốn ngân hàng là nguồn vốn bổ sung lưu động, còn nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn phải từ thị trường vốn nên cần đẩy mạnh và mở rộng thị trường vốn”, ông Hùng nói.
Ông cũng mong muốn Chính phủ chỉ đạo Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tích cực triển khai hoạt động cho vay trực tiếp đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo thêm kênh cung ứng vốn cho nhóm doanh nghiệp này.
Đồng thời, Chính phủ cần có chính sách trợ giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực quản trị kinh doanh, xây dựng các dự án, phương án sản xuất kinh doanh khả thi tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng được thuận lợi.
“Trước mắt, chúng ta cần rà soát, đánh giá các khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện Nghị định số 34 của Chính phủ về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn trong hoạt động của các Quỹ Bảo lãnh hiện nay, xem xét xây dựng cơ chế tạo nguồn quỹ dự phòng rủi ro của Quỹ, đảm bảo khi xảy ra rủi ro Quỹ có khả năng xử lý mà vẫn bảo toàn vốn điều lệ”, ông Hùng nói.