Như hoa hướng dương hướng về ánh sáng -Kỳ 2: Mặt trời trong bóng tối
Như hoa hướng dương hướng về ánh sáng – Kỳ 2: Mặt trời trong bóng tối

“Một hoàn cảnh đáng thương và nghị lực như thế, sao lại đi kỳ thị?”câu nói của cô Trần Thị Ninh – nguyên Hiệu trưởng trường THPT Mỏ Trạng khiến chúng tôi thực sự xúc động và khâm phục. Bởi ở thời điểm hơn 20 năm trước, HIV là nỗi ám ảnh kinh hoàng với cộng đồng thì sự nhìn nhận của một lãnh đạo nhà trường như cô thật sự hiếm có…
Vào đầu thập niên 90, giữa lúc đại dịch HIV/AIDS đang hoành hành và người bệnh phải đối mặt với sự kỳ thị, phân biệt đối xử lan rộng thì một hình ảnh mang tính biểu tượng trong phòng, chống HIV/AIDS ra đời đã làm thay đổi cách nhìn về cộng đồng những người bị nhiễm HIV/AIDS trên toàn cầu.
Đó là sáng kiến của một nhóm nghệ sĩ tại New York, Mỹ mang hình dải lụa màu đỏ, được kết vào nhau như một chiếc nơ. Trong đó, màu đỏ tượng trưng cho máu và sự đau khổ do căn bệnh gây ra nhưng cũng hàm nghĩa tình yêu thương, sự mạnh mẽ, nhiệt huyết và khát vọng sống của những người bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Hình dáng hai đầu dải lụa chạm vào nhau tạo thành chiếc nơ thể hiện sự quan tâm, cam kết và ủng hộ của cộng đồng đối với người nhiễm HIV/AIDS.
Không biết những năm 2000, khi HIV lan đến Mỏ Trạng, người dân ở đây đã biết đến biểu tượng và ý nghĩa của nó hay chưa, nhưng câu chuyện về sự quan tâm, sẻ chia với người có H ở đây thì rất gần với thông điệp mà nó hướng đến. Bằng sự cảm thông và dang rộng vòng tay, từ trong bóng tối, những người có H đã tìm thấy mặt trời…

Để hiểu hơn về cuộc sống và hoàn cảnh của cô giáo Nguyễn Thị Hoàn, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với cô Hoàng Thị Hạnh - Hiệu trưởng Trường THPT Mỏ Trạng. Cô chia sẻ: “Với đặc thù là xã miền núi, trường có gần 70% học sinh là dân tộc thiểu số (Tày, Nùng, Dao...) nên hoàn cảnh gia đình phần lớn là khó khăn. Việc dạy học trong điều kiện như vậy chắc chắn sẽ vất vả nhưng bù lại, sự trưởng thành và thành quả mà các em đạt được chính là niềm vui và sự bù đắp xứng đáng cho công sức mà thầy cô bỏ ra.
Đến nay, tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông của trường luôn đạt 100%. Nhiều học sinh của lớp cô Hoàn đã đỗ vào các trường đại học với điểm Văn khá cao. Cô cũng luôn là giáo viên giỏi của trường, được các em học sinh, đồng nghiệp quý mến. Cô Hoàn hiện nay là Tổ trưởng Tổ chuyên môn Văn - Sử - Giáo dục Kinh tế Pháp luật của trường”.

Tâm sự về hoàn cảnh riêng của cô giáo Hoàn, lãnh đạo nhà trường thể hiện sự đồng cảm và sự trân trọng: “Tôi biết ở ngoài kia có những giáo viên bị HIV thì lập tức phụ huynh sẽ cho con chuyển trường hoặc gây sức ép để nhà trường điều chuyển giáo viên làm công việc khác nhưng ở đây không có hiện tượng đó. Giáo viên, học sinh, phụ huynh ban đầu biết chuyện không may của cô cũng lo sợ nhưng càng về sau, sự tâm huyết với nghề khiến ai ai cũng tôn trọng, tin tưởng, quý mến cô hơn.
Không ít học sinh chia sẻ với tôi rằng ‘em chưa bao giờ yêu thích môn Văn cho đến khi học với cô Hoàn”; còn phụ huynh thì nói, nhờ có sự dìu dắt của cô Hoàn mà con cái họ mới đạt được kết quả tốt trong học tập. Giờ Văn của cô luôn là tiết học được các em học sinh chờ đợi. Cô chủ động cập nhật kiến thức, áp dụng công nghệ thông tin, dạy theo phương pháp mới nên học sinh rất hào hứng. Với những học sinh yếu kém, cô kèm cặp dạy thêm mà không nhận học phí, cũng xuất phát từ sự yêu nghề, hết lòng vì các em học sinh và hiểu hoàn cảnh khó khăn của các em”.
Không chỉ không phân biệt, ở đây mọi người còn xem cô Nguyễn Thị Hoàn là tấm gương về nghị lực sống. “Cô Hoàn có một sức hút đặc biệt là ai đã tiếp xúc với cô dù chỉ một lần cũng đều rất mến”, cô Hạnh nói.

Khác với nhiều bệnh nhân HIV giai đoạn đầu thường tự kỳ thị bản thân thì với chị Hoàn, sự tự tin, chủ động chia sẻ với mọi người được chị xác định là yếu tố quan trọng để nâng cao hiểu biết của cộng đồng. Bên cạnh việc nhận được nhiều sự hỗ trợ của mọi người, bản thân chị cũng là người “cho đi”.
Từng trải qua nhiều biến cố nên chị luôn thấu hiểu và chia sẻ với những hoàn cảnh tương tự. Nhiều học sinh thuộc diện hộ nghèo, thường được chị đưa về nhà ăn cơm, kèm cặp học sinh yếu kém ở lớp mà không nhận học phí… Gần đây nhất, khi học sinh bị mất sách vở sau mưa lũ, chị đã mua sách vở mới tặng học sinh. Những việc làm tuy nhỏ nhưng đầy ân tình khiến các thế hệ học sinh khi ra trường, dù đi đâu và làm gì, các em vẫn luôn nhắc về cô giáo Hoàn với lòng biết ơn sâu sắc.

Hàng ngày, do đặc điểm xa nhà nên buổi trưa các giáo viên thường đến căn hộ tập thể của chị trong trường để ăn cơm. “Có thể nói là chúng tôi ăn cùng ngủ cùng, không có bất kỳ một khoảng cách nào. Hôm nay nhà báo hỏi về chuyện này tôi mới nhớ, chứ nhiều năm qua chúng tôi không còn ý niệm cô Hoàn là người có H hay khái niệm “sống chung với người có H” nữa. Trong suy nghĩ của chúng tôi cô Hoàn giống như bao người khác, vì như chúng ta thấy, viêm gan B cũng gây nguy hiểm nếu bị lây truyền chứ đâu chỉ HIV?”, cô Hiệu trưởng Hoàng Thị Hạnh nói.

Nhưng đó là bây giờ, còn thời điểm chị Nguyễn Thị Hoàn mới bị lây nhiễm thì sao? Để giải đáp tò mò này, chúng tôi đã trò chuyện với bà Trần Thị Ninh – nguyên lãnh đạo nhà trường, người chứng kiến giai đoạn đầu chị Hoàn gặp biến cố. Những tưởng thời đó trình độ hiểu biết về bệnh chưa nhiều thì mọi người phải tránh né lắm nhưng điều bà chia sẻ khiến chúng tôi xúc động: “Một hoàn cảnh đáng thương và nghị lực như thế, sao lại đi kỳ thị? Cô Hoàn là giáo viên giỏi, được học sinh yêu mến lại luôn nỗ lực vượt lên nghịch cảnh thì càng đáng được trân trọng hơn. Chỉ duy nhất một học sinh là gia đình cho chuyển trường, nhưng không phải do kỳ thị mà vì cậu ta quá yêu cô giáo. Khuyên can không được, gia đình đành phải “cưỡng chế” con sang trường khác”.


.jpg)
Sống trong môi trường đầy ắp yêu thương như thế nên chị Hoàn cũng coi đây là ngôi nhà theo đúng nghĩa đen của mình. Chị sống trong khu tập thể rộng 25m2 của trường từ khi còn trẻ. Lúc đầu là vì nhà xa, bây giờ thì vì nơi đây quá gần gũi, quá thân thuộc, là nơi vỗ về và nâng đỡ mỗi khi chị yếu đuối.
Nhiều năm trước, khi biết chị có hoàn cảnh đặc biệt, lại thêm cảnh mẹ già thường xuyên ốm đau, chị gái không phát triển bình thường nhưng vẫn không ngừng nỗ lực vươn lên nên Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Bắc Giang có ý muốn chuyển cô về giảng dạy ở Tân Yên cho gần nhà, không phải sống cảnh tập thể. Trường Tân Yên có điều kiện tốt hơn Mỏ Trạng, là cơ hội mà bất cứ ai cũng đều mong muốn. Nhưng chị đã từ chối. “Tôi chọn nơi đây và nơi đây cũng chọn tôi rồi” – chị Nguyễn Thị Hoàn nói.

Dù chỉ được làm mẹ một lần với thời gian vỏn vẹn 4 tháng nhưng cho đến nay, chị Hoàn lại là người “giàu” con nhất trong số các giáo viên ở trường. Họ là những học trò của chị như: Chu Thị Tuyết, Nguyễn Thị Thảo, Lê Thị Bích Thu, Ngô Khánh Hoà… Tất cả đều có chung một điểm: Vì yêu mến, đồng cảm mà nhận là mẹ.
Trong số đó có trường hợp khá đặc biệt của em Ngô Khánh Hoà. Hoà từng là học sinh cá biệt, nổi tiếng nghịch ngợm và chơi bời ở trường, một phần lý do xuất phát từ hoàn cảnh bố mẹ li hôn từ khi em còn nhỏ. Vào năm cấp 3, cái tuổi dễ nổi loạn rất cần sự quan tâm, sẻ chia thì mẹ em đi lao động nước ngoài. Sống một mình lại có tiền của mẹ gửi về, Hoà cứ thế mà trôi theo bản năng. Em sa vào các cuộc vui sau mỗi giờ học, có lúc còn hít bóng cười… Cho đến một lần em theo bạn học vào nhà cô giáo Hoàn chơi, sự gần gũi, ấm áp của cô khiến Hoà thèm khát có một người người mẹ như thế.
Em viết thư bày tỏ mong muốn được làm con nuôi của cô. Một bên thiếu vắng tình mẫu tử, một bên khao khát làm mẹ đã được số phận sắp đặt. Hoà gọi cho mẹ ruột xin phép làm con nuôi và dọn đến nhà cô giáo ở. Mẹ em mừng đến phát khóc vì từ đây chị đã nhẹ lòng hơn khi có người mẹ không sinh mà dưỡng, thay chị chăm sóc con gái để chị yên tâm hơn trong những năm tháng ở xứ người.

Thấy chị nhận Hoà làm con nuôi, nhiều người cũng băn khoăn “sao không chọn đứa ngoan ngoan mà nuôi?”. Nhưng chị nhìn thấy đằng sau sự nổi loạn ở Hoà là một tính cách rất đáng yêu. “Một học sinh hư khi được giáo dục để thay đổi thì đó cũng là thành quả, là điều để mình chinh phục. Hơn nữa, tôi rất tin vào chữ duyên đã đưa tôi và con đến với nhau”, chị trải lòng.
Trò chuyện với con gái nuôi Ngô Khánh Hoà, tôi hỏi, lúc ở với mẹ Hoàn thì có sợ không? Cô lém lỉnh hỏi lại: “Vậy chị có sợ không?”, rồi cười giòn tan: “Lúc đó em còn trẻ mà, tuổi trẻ thì có biết sợ là gì. Nên em mới chơi bời rách giời như thế! Nhưng khi gặp mẹ, em đã bị sự ấm áp của mẹ chinh phục. Với lại, khi ở cùng thì mẹ giữ gìn cho em lắm, chẳng hạn như cắt móng tay hay khi chẳng may bị xây xước gì chẳng hạn…”.
Nhưng để Hoà có ngày hôm nay không thể chỉ dựa vào sự yêu thương mà còn cần đến kỷ luật thép. Chị Nguyễn Thị Hoàn cho biết, ở trường chị rất gần gũi với học sinh nhưng cũng là người nổi tiếng nghiêm khắc. Các em đang ở giai đoạn hình thành nhân cách nên rất dễ bị dao động, thích khẳng định bản thân nên giáo dục mà chỉ dựa vào khuyên nhủ, yêu thương thì khó đạt được hiệu quả, nhất là với học sinh cá biệt.
"Hoà còn là con nên sự nghiêm khắc còn nhiều hơn. Tôi cho rằng sứ mạng của người mẹ không phải làm chỗ dựa cho con cái mà là làm cho chỗ dựa ấy trở nên không còn cần thiết", chị nói.
Tâm sự về quãng thời gian bị đưa vào khuôn khổ, Ngô Khánh Hoà kể: “Mẹ em nghiêm lắm. Ngày ở với mẹ, đang quen sống tự do nên lúc đầu cũng phản kháng ác liệt. Mẹ cấm em không được chơi với đám bạn cũ, không yêu đương để dành thời gian học, đi đâu 10 giờ phải có mặt ở nhà… Có lần em ngồi cắn hạt hướng dương trong lớp, mẹ không nói gì mà chiều về xách một túi hướng dương to đùng bảo em ngồi ăn cho chán, mai lên lớp không “thèm” nữa. Bị mẹ quản ghê quá, có lần em còn bỏ về nhà cũ, được vài hôm lại quay về vì nhớ mẹ. Thấy em quay về, mẹ không gặng hỏi, cũng không trách gì, cứ coi như không có chuyện gì xảy ra để em đỡ ngượng”.

Quan tâm, thủ thỉ, nghiêm khắc đủ cả nhưng không thể một sớm một chiều mà thành công, nhất là uốn nắn một đứa trẻ bất kham. “Cho đến một lần mẹ biết em hít bóng cười, mẹ khóc và nói với em: ‘Mẹ đã mất bố Dũng, mất cậu, mất con lúc 4 tháng tuổi rồi, con đừng để mẹ phải mất thêm con nữa’. Chỉ đến khi nghe câu nói này của mẹ, em mới thực sự bừng tỉnh, càng nghĩ càng thấm thía nên quyết tâm thay đổi”, Hoà nhớ lại.
Học hết lớp 12, Hoà thi vào trường trung cấp y. Ra trường, không xin được công việc đúng chuyên môn, cô xin làm công nhân cho công ty ở gần nhà (Lục Nam, Bắc Ninh). Ngày Hoà làm đám cưới, mẹ ruột của Hoà xúc động nói với cô giáo: “Không có cô giáo chắc là con đã không có ngày hôm nay. Bây giờ gia đình được hưởng thành quả rồi”. Mừng cho con nhưng cũng đồng nghĩa để lại trong lòng một người mẹ như chị những khoảng trống. Tình cảm ấy đã được chị gửi gắm vào bài thơ làm quà tiễn con đi lấy chồng: “Con gái đi lấy chồng/ Nhà thưa dần tiếng nói/ Mâm cơm mỗi buổi tối/ Lệch một phía con ngồi/ Vui vì con lớn rồi/ Buồn vì nhà vắng vẻ”.
Chị cũng dặn dò con trong cách đối đãi với nhà chồng:“Đi làm dâu nhà người/ Muốn được thương, được quý/ Con ơi, con hãy nhớ/ Cho trọn đạo làm người/ Mẹ cha nói vâng lời/ Biết sai thời phải sửa/ Những gì con đang có/ Gây dựng là mẹ cha/ Vị tha và độ lượng/ Không có nghĩa đớn hèn/ Hạnh phúc được xây nên/ Từ trái tim chung thuỷ”…
Làm vợ rồi giờ đây làm mẹ của hai đứa con xinh xắn, Hoà càng thấu hiểu tấm lòng của một người mẹ. Dù nhà cách khá xa xã Tam Tiến nhưng hầu như tháng nào Hoà cũng tranh thủ về thăm mẹ Hoàn.

Ngoài Ngô Khánh Hoà, chị Hoàn còn có cô con gái nuôi tên Thu. Thu không ở cùng như Hoà mà chỉ gọi mẹ vì sự yêu mến, đồng cảm. Thu giờ sống ở Quảng Ninh nhưng vẫn thường về thăm mẹ, mang theo rất nhiều đồ ăn cây nhà lá vườn, có lần về chỉ kịp ôm mẹ một lúc cho đỡ nhớ rồi lại đi. Thu bảo, em thương mẹ em lắm, cũng phận đàn bà cả. Còn chị Hoàn nói vui: “Có nhiều con nuôi, lại được thương thế này thì nghỉ hưu luôn được rồi. Mỗi tháng đến nhà mỗi đứa một lần là không lo bị đói…”.

Hiện tại, chị Hoàn đang làm mẹ của cô con gái Phạm Thái Phương Minh, là con của bạn trai. Hai người biết nhau từ năm 2012 vì đều là người cùng cảnh nhưng gắn bó thì mới được vài năm nay. Do tính chất nghề xây dựng nên anh thường xuyên phải đi làm xa, tháng mới về vài ngày. Lúc trước anh gửi con ở Hà Giang nhưng từ ngày yêu nhau, chị tình nguyện đón con gái anh về ở cùng để chăm sóc. Đến nay cháu đã ở với chị được 3 năm, đang học lớp 6, coi chị như mẹ ruột.
Từ một đứa trẻ rụt rè nhút nhát, không biết nấu ăn và học lực bình thường, đến nay, Phương Minh đã được mẹ Hoàn dạy nấu cơm, làm việc nhà và đặc biệt yêu thích môn Văn.
Em kể, điều em thích nhất chính là “được ở nhà mới” – nơi em được yêu thương, được chăm sóc và quan trọng hơn cả là được học hành như bao bạn bè đồng trang lứa.
“Những bài khó ở lớp về nhà con đều được mẹ dạy. Nhờ mẹ mà môn Văn con học tốt hơn nhiều”, em cười, ánh mắt lấp lánh sự tự tin.
Không chỉ dạy học, mẹ Hoàn còn tận tình chỉ em cách nấu những món ăn đơn giản. Em khoe mình có thể làm được khá nhiều việc nhà. “Mẹ Hoàn không phải là người nghiêm khắc. Chỉ khi con làm sai thì mẹ mới nghiêm khắc thôi…”.

Ngày trước, hình ảnh “mẹ kế” trong những câu chuyện Tấm Cám hay Cô bé Lọ Lem khiến em e dè, sợ hãi. Nhưng khi về sống cùng, tình cảm và sự quan tâm, tối đi ngủ được mẹ ôm vào lòng khiến em dần xoá đi nỗi sợ và sự mặc cảm tự ti khi có bố mẹ đều nhiễm HIV. “Giờ con không còn mặc cảm nữa. Con thấy đó chỉ là một căn bệnh bình thường thôi”, em nói, giọng chững chạc hơn tuổi.
Bố em đi làm xa, lâu lâu mới về được một tuần. Những cuộc gọi hỏi thăm từ bố và sự đồng hành của mẹ Hoàn giúp em có cảm giác gia đình trọn vẹn mà trước đây em chưa từng nghĩ đến. Em gọi mẹ Hoàn là “mẹ của trái tim”. “Con rất tự hào vì có một người mẹ giỏi, luôn yêu thương con dù con không phải con ruột…”.
Câu chuyện xung quanh cô giáo Nguyễn Thị Hoàn mà chúng tôi ghi nhận được rất gần với khuyến cáo của Tổ chức Y thế Thế giới (WHO) về ý nghĩa của sức khỏe tinh thần. Người có sức khỏe tinh thần tốt sẽ dễ dàng vượt qua được những khó khăn, thử thách và luôn có được trạng thái vững vàng, tự tại trước mọi hoàn cảnh.

Trong y học cũng vậy, ngoài thành tựu khoa học kỹ thuật, sự chăm sóc của đội ngũ nhân viên y tế, ý chí con người chính là một trong những vũ khí hiệu quả giúp người ta chiến thắng bệnh tật. Niềm hy vọng và ý chí sống có thể cải thiện đáng kể tình trạng bệnh, thậm chí nhiều hơn những gì bác sĩ mong đợi trong một số trường hợp. Các nghiên cứu khoa học đã chứng minh rằng tâm lý tích cực có thể giúp tăng cường hệ miễn dịch, giảm tác dụng phụ của điều trị và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Sức mạnh tinh thần không đến từ nơi nào khác mà chính là đến từ bản thân, từ tình yêu thương của gia đình và cộng đồng. Nhiều nghiên cứu tâm lý học hiện đại cho thấy con người hồi phục thể chất và tinh thần tốt hơn khi nhận được tình yêu thương, đặc biệt là từ người thân.
Đây cũng chính là một trong những yếu tố góp phần làm nên thành công trong cuộc chiến đẩy lùi HIV/AIDS ở Việt Nam trong 35 năm qua.
Kỳ cuối: Không để ai bị lãng quên...