Đời sống văn hóa

Phẩm chất 'Bộ đội cụ Hồ' soi rọi những trang văn

Phạm Vân Anh 18/04/2025 09:30

Điềm đạm, chân thành và trọng thị… đó là cảm nhận chung của bất cứ ai khi có dịp tiếp xúc, làm việc với Thượng tá, nhà thơ Nguyễn Văn Á.

Là một người lính bước ra từ khói lửa chiến tranh với hàng chục năm ròng lăn lộn trên khắp nẻo chiến trường khốc liệt tử sinh, nên dễ dàng cảm nhận được từ ông những phẩm cách đáng quý của “Bộ đội Cụ Hồ” và một tấm lòng sâu nặng nghĩa tình với đồng chí, đồng đội. Nên vì thế, tôi đã không hề ngạc nhiên khi đọc và ngẫm thấy những trang văn của ông luôn thấm đẫm nghĩa tình. Đặc biệt là với tập truyện ký “Phía Nam sông Bến Hải”, hình ảnh người lính trong hồi ức của ông lấp lánh một tình cảm trìu mến với cách hành văn cô đọng, chân phương mà tràn đầy xúc cảm.

Là thế hệ đàn em mang màu áo lính Biên phòng, tôi thường nói vui với nhà thơ Nguyễn Văn Á rằng, anh là người lính hai lần anh hùng. Bởi một lẽ giản dị, ông đã chiến đấu hết sức anh dũng trước mọi làn đạn của kẻ thù, từng được tặng thưởng bốn Huân chương Chiến công các loại, một “Huy chương Tuổi trẻ Anh hùng Bảo vệ Tổ quốc” và hai bằng chứng nhận “Dũng sĩ diệt Máy bay”. Hai đơn vị mà ông đã tham gia chiến đấu trong kháng chiến chống Mỹ và bảo vệ biên giới phía Bắc, phía Tây Nam Tổ quốc là Trung đoàn 27 (Đoàn Triệu Hải) và Trung đoàn 12 (Đoàn Thanh Xuyên) Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng) có Anh hùng liệt sĩ Lê Đình Chinh là những “Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” tiêu biểu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Công tác, chiến đấu trong đội hình của những “quả đấm thép” như vậy, hẳn hành trang của người lính trẻ Nguyễn Văn Á những năm ấy ngoài cây súng còn có cây bút và cuốn sổ tay ghi chép nên hôm nay chúng ta mới có trên tay tập truyện ký “Phía Nam sông Bến Hải” - kết tinh của những năm tháng nhà văn - chiến sĩ ấy chiến đấu trên đất lửa Vĩnh Linh, từ bờ Bắc giải phóng sang bờ Nam sống Bến Hải rồi theo bước chân thần tốc tham gia Chiến dịch Tổng tiến công, nổi dậy mùa Xuân năm 1975 và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Cuốn truyện ký được bố cục thành 2 phần. Phần 1 “Khi miền Nam vẫy gọi” gồm 19 bài viết về những trận đánh anh cùng đồng đội đã kinh qua, những kỷ niệm khi sát cánh “chia lửa” chiến trường cùng đồng đội và ký ức về những người anh hùng thầm lặng chưa được vinh danh như “81 ngày đêm đối mặt với tử thần”, “Trận đánh trên cánh đồng Phương Ngạn”, “Hồ Khê nơi các anh nằm lại”, “Những anh hùng chưa được vinh danh”, “Cuộc hành quân thần tốc”, Luồn sâu vào sào huyệt địch”, “Đánh địch rút chạy trên đường phố Lái Thiêu”… Phần 2 “Trầm tích” gồm 10 bài viết về hành trình hậu chiến của chính mình để tri ân đồng đội, trả lại tên cho liệt sĩ cùng sự quyết tâm không mệt mỏi để huy động mọi nguồn lực xây dựng nên những công trình tưởng niệm nằm bên sông Bến Hải để anh linh đồng đội về đây quây quần, an nghỉ như “Trả lại tên cho các liệt sĩ”, “Vết thương không mảnh đạn”, “Viết từ Quảng Trị”, “Nước mắt da cam”…

Theo dòng hoài niệm của Nguyễn Văn Á, tôi như được thấy lại không khí sục sôi chí tráng nam nhi lên đường “Quyết tử vì Tổ quốc quyết sinh” trên khắp nẻo làng quê đất Việt. Và cũng hiểu được thêm về chàng thanh niên 3 lần làm đơn xin ngũ dù tương lai đang rộng mở đang chờ đón anh với một chỉ tiêu du học ở Đông Âu: “… tháng 7 năm 1971, nhân có đợt tuyển quân của huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An, tôi háo hức tham gia khám nghĩa vụ quân sự. Tôi rất vui khi sức khỏe của mình được xếp loại A đủ điều kiện lên đường nhập ngũ. Nhưng niềm vui ngắn chẳng tày gang bởi tôi thuộc diện ưu tiên chờ làm thủ tục sang Tiệp Khắc học lớp công nhân kỹ thuật cơ khí vì anh đầu đang ở chiến trường B, anh thứ hai là liệt sĩ. Biết mình không có tên trong danh sách nhập ngũ lần này, tôi ngồi đứng không yên. Tôi viết đơn xin nhập ngũ lần thứ ba cầm trực tiếp đến gặp ông Ngô Ngoạt, Bí thư Đảng ủy xã Nghĩa Đức nằng nặc xin đi cho bằng được. Cuối cùng nguyện vọng của tôi cũng được ông Ngô Ngoạt chấp nhận. Đối với tôi, việc lên đường nhập ngũ chẳng những để hoàn thành nghĩa vụ công dân đối với Tổ quốc, mà còn là cơ hội để tôi trả thù cho anh tôi đã hi sinh vì bom đạn Mỹ” (Khi miền Nam vẫy gọi).

Benkia song ben hai_page-0001

Trở thành anh giải phóng quân, Nguyễn Văn Á được biên chế trong đội hình “Đại đội 21 (nay là Đại đội 16) Súng máy Cao xạ 12 ly 7 Trung đoàn 27 – một đơn vị chủ lực cơ động của Mặt trận B5 đóng quân ở Đội 4, Nông trường Quyết Thắng, xã Vĩnh Hà, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, khi đơn vị đang gấp rút chuẩn bị cho Chiến dịch Xuân – Hè năm 1972”. Cũng xin được nói thêm rằng, trong suốt cuộc trường chinh vĩ đại hơn 20 năm chống Mỹ, những chiến sĩ của Trung đoàn 27 (Đoàn Triệu Hải) anh hùng cùng quân dân Vĩnh Linh đã bám đất, bám làng, kiên gan chiến đấu chống lại mọi âm mưu thủ đoạn của Mỹ Nguỵ, mở rộng vùng giải phóng xuống phía Nam. Và những người lính - những đứa con của đất mẹ Việt Nam, với sứ mệnh lịch sử của mình đã một lần nữa được tái hiện đầy bi tráng: “Mùa Xuân năm 1972, chiến trường Quảng Trị lại vào mùa chiến dịch… Đêm Trường Sơn và cái rét Nàng Bân vẫn còn phảng phất, đội hình hành quân của Tiểu đoàn 3 như con rắn khổng lồ lặng lẽ xuyên rừng, xuyên đêm vào chiến dịch. Những địa danh Khe Cau, kiềng Cây Quýt, núi Thu Bồn, Điểm cao 1001… lần lượt bị bỏ lại phía sau để rút dần cự ly đến địa bàn tác chiến. Im lặng và im lặng, đoàn quân như bóng ma “đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng” trên đường vào chiến dịch, người đi sau bám người đi trước qua ánh sáng lân tinh phát ra từ cây gỗ mục cài sau ba lô của người đi trước. Cứ một tiếng đồng hồ thì dừng lại nghỉ 15 phút, đoàn quân như con sâu đo kiên trì nhích dần nhích dần đến Điểm cao 322 và 288 trước khi trời sáng” (Nổ súng trước giờ G).

Ở bên dòng Bến Hải, Mỹ Nguỵ huy động các loại máy bay để đổ xuống Vĩnh Linh nhỏ bé hàng ngàn tấn bom đạn các loại trong hơn 1.000 ngày đêm. Số bom đạn ấy lớn hơn sức nổ của 2 quả bom nguyên tử từng ném xuống Hiroshima và Nagashaki. Vậy mà quân và dân Vĩnh Linh, đặc biệt là những chiến sĩ pháo cao xạ vẫn chiến đấu ngoan cường: “Chỉ chờ có thế, khi chiếc máy bay đã lọt vào vòng ngắm nhìn rõ cả đầu tên phi công trong buồng lái tôi lập tức bóp cò. Khẩu 12 ly 7 trong tay tôi rung lên tuôn ra 5 viên đạn vạch đường cắm vào chiếc máy bay. Và chỉ trong chớp mắt, một bó đuốc bùng lên từ chiếc L-19 cùng với tiếng hò reo của chiến sĩ bộ binh: “ Trúng rồi, cháy rồi! Hoan hô 12 ly 7!” Tôi ngừng bắn thở phào nhẹ nhõm xen lẫn niềm vui chợt trào dâng khó tả trong lòng. Bất chợt tôi nghĩ đến cha tôi. Tôi nghĩ đến khuôn mặt thất thần và giọt nước mắt của cha ngày tiễn tôi lên đường ra trận. Tôi lẩm bẩm trong mồm: “Cha ơi! Thằng Á của cha vừa lập được công đầu cha có vui không?” (Nổ súng trước giờ G). Và đây có lẽ cũng là chiến công để chàng xạ thủ Nguyễn Văn Á được công nhận là Dũng sĩ diệt máy bay.

Không chỉ là một vùng ký ức chân thực của một cựu chiến binh đã có những tháng ngày cùng đồng đội chiến đấu kiên cường trên nhiều mặt trận để đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối, “Phía Nam sông Bến Hải” còn là những trang văn học sử giá trị với nhiều biên độ cảm xúc. Những trận đánh mà tác giả đã trải qua, những người lính kiêu dũng, quả cảm mà tác giả đã cùng chung chiến hào, những câu chuyện nhân bản mang nghĩa tình đồng đội và sự gắn bó máu thịt của quân dân trong thời chiến… đã được tác giả tái hiện bằng giọng văn trần thuật, mang hơi thở chân thực và góc nhìn xác tín của người trong cuộc nên thực sự ấn tượng với người đọc.

0342fcc5200b9355ca1a(1).jpg

Tôi ám ảnh trước sự hy sinh của Thiếu úy Hoàng Thọ Mạc – Đại đội trưởng Đại đội 3 xe tăng: “Phát hiện thấy tổ diệt tăng của Đại đội 3 đang bị địch dùng hỏa lực ngăn chặn không thể tiếp cận được Bắc cầu Vĩnh Bình, Hoàng Thọ Mạc lao ra khỏi xe tăng dùng khẩu AK báng gập bắn về phía địch cho đồng đội xông lên đánh chiếm đầu cầu. Trong lúc đang chỉ huy bộ đội chiến đấu thì một quả đạn M-79 nổ ngay trước mặt khiến anh xây xẩm mặt mày, toàn thân buốt lạnh, máu chảy ra lênh láng. Quân địch bên kia cầu Vĩnh Bình càng bắn mạnh hơn. Chúng vãi đạn xuống mặt đường chặn đội hình tiến quân của ta…. Xoẹt! Một quả đạn pháo do xe tăng địch bắn ra bỗng vang lên. Bằng phản xạ nhanh nhạy của người chỉ huy dạn dày trận mạc, Hoàng Thọ Mạc dùng cả thân mình đè lên người chiến sĩ vừa dùng súng B-41 bắn cháy xe tăng địch phía Nam cầu Vĩnh Bình. Sau tiếng nổ đinh tai nhức óc bởi quả pháo nổ rất gần, chiến sĩ B-41 đã được Hoàng Thọ Mạc cứu sống nhưng anh lại bị thương lần nữa và anh dũng hy sinh vào lúc 9 giờ 50 phút ngày 30/04/1975 trước cửa ngõ Sài Gòn, khi Đại đội 3 của anh vừa bắn cháy thêm 2 chiếc xe tăng địch.” (Hoàng Thọ Mạc – cái chết hoá thành bất tử”.

Qua “Phía Nam sông Bến Hải”, ta sẽ thấy nỗi đau của người lính trận trào lên trang viết, sẽ thấm thía sâu hơn về sự tàn khốc của chiến tranh và vết thương hậu chiến không thể nào lành lại. Nhưng cũng qua đó, ta thấu hiểu được cái giá của hoà bình không thể lượng hoá bằng những con số hay miêu tả bằng từ ngữ…, ta tự hào biết mấy về một dân tộc Việt Nam anh hùng, với ý chí, nghị lực, sức mạnh đại đoàn kết đã làm nên những chiến công vĩ đại. Trên hành trình đi tìm hài cốt của anh trai mình, tác giả đã gặp những người mẹ liệt sĩ với nỗi đau muôn kiếp chẳng phôi phai: “Có một lần, tôi ngủ nhờ nhà mẹ Sở ở xã Hưng Lam, huyện Hưng Nguyên nằm bên bờ sông Lam. Năm ấy mẹ Sở mới 65 tuổi, nhưng lưng mẹ đã còng trước tuổi, đôi mắt bị mờ vì bệnh thiên đầu thống. Trên bàn thờ gia tiên của mẹ có 03 tấm bằng “Tổ quốc ghi công”! Khi tôi hỏi về hoàn cảnh gia đình và những đứa con liệt sĩ đã hy sinh, mẹ bỗng òa lên khóc: “Mẹ có 3 người con trai xung phong lên đường giết giặc nhưng đã hy sinh ở mặt trận phía Nam và chiến trường K!”. Nhìn tấm lưng còng của mẹ, tôi thầm nghĩ, tấm lưng ấy còng xuống không chỉ vì thời gian, tuổi tác; mà còn vì nỗi đau mất con vít còng lưng mẹ sau nhiều đêm không ngủ. Nghĩ về nỗi đau của chính mình, tôi hiểu nỗi đau trong lòng mẹ vô bờ bến không thể nào khỏa lấp, dù thời gian là vô tận cũng chẳng thể nào băng bó cho lành!” (22 năm đi tìm hài cốt liệt sĩ).

Bên cạnh việc tái hiện tình tiết một số trận đánh, hướng tiến công tiêu biểu trên đường giải phóng miền Nam của trung đoàn Triệu Hải anh hùng, cuốn sách còn mang đậm tính nhân văn khi tái hiện tinh thần quả cảm, sự hy sinh và những trăn trở của của người lính. Mặc dù là thể loại truyện ký, xong tác giả đã rất dụng công trong việc quan sát và miêu tả tâm lý nhân vật, thoại nhân vật trong bối cảnh cụ thể, tạo được sự tác động trực tiếp đến tâm lý và khả năng liên tưởng, hình dung của người đọc về diễn biến câu chuyện, thời điểm lịch sử được kể lại. Những nhân vật là đồng đội của ông cũng được miêu tả với vẻ đẹp của khí phách can trường, sự khiêm nhường “súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa” mà không hề kêu ca, đòi hỏi chế độ ưu đãi… đã vượt thoát khỏi trang văn, có sức ám ảnh lớn gợi cho người đọc hình dung về một “thế hệ vàng” của dân tộc.

Để đạt tới giá trị ấy, sức cộng cảm ấy, hẳn là bởi từ góc nhìn, suy nghĩ của tác giả Nguyễn Văn Á luôn hàm chứa sự day dứt với quá khứ, luôn cảm thấy mắc nợ với những đồng đội đã hy sinh và cả những người còn đang sống trong sự khó khăn, thiết hụt. Sự kết hợp giữa hồi ký cá nhân và góc nhìn của một nhà báo, một người làm công tác “đền ơn đáp nghĩa” khiến cuốn sách không chỉ kể lại lịch sử của một vùng đất, một đơn vị với những người lính mang phẩm chất “Bộ đội cụ Hồ” cao đẹp, mà còn giúp thế hệ sau thấu hiểu sâu sắc hơn về giá trị của độc lập, hòa bình và những bài học lớn từ chiến tranh..

    Nổi bật
        Mới nhất
        Phẩm chất 'Bộ đội cụ Hồ' soi rọi những trang văn
        • Mặc định

        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO