Phát triển vùng đồng bào dân tộc – điểm sáng trong hành trình xây dựng Quảng Trị bền vững
Giữa đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, những bản làng của đồng bào Bru – Vân Kiều, Pa Cô, Chứt, Tà Ôi ở Quảng Trị đang từng ngày thay da đổi thịt. Đường bê tông uốn lượn đến tận bản, điện sáng rực đêm vùng cao, tiếng cười trẻ thơ vang trong lớp học mới – tất cả là minh chứng sinh động cho hiệu quả của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021–2025.
Chiều muộn ở bản Ka Lốc (huyện Hướng Hóa cũ), ông Hồ Văn Nông thong thả dắt xe máy ra con đường mới mở chạy xuyên qua bản. Vừa chỉ tay về phía con đường bê tông phẳng lì, ông vui vẻ kể:“Ngày trước, mùa mưa đến là con đường này chẳng ai đi nổi. Giờ xe tải, xe máy vô tận bản. Có điện, có nước sạch, có trường học khang trang, con em mình được học hành đàng hoàng hơn nhiều rồi”.

Câu chuyện của ông Nông cũng là bức tranh thu nhỏ cho hành trình chuyển mình mạnh mẽ của vùng đồng bào dân tộc thiểu số Quảng Trị – nơi chiếm đến 61% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, với hơn 255 nghìn người sinh sống, trong đó gần một nửa là đồng bào dân tộc thiểu số.
Nhờ chính sách đầu tư đồng bộ, đặc thù và nhân văn, hàng nghìn hộ nghèo đã được hỗ trợ nhà ở,đất sản xuất, nước sinh hoạt; hạ tầng kinh tế – xã hội được đầu tư mạnh mẽ, tạo nền tảng cho phát triển bền vững.
Theo Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Quảng Trị, tổng nguồn vốn huy động cho chương trình giai đoạn 2021–2025 đạt hơn 2.900 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương chiếm trên 96%. Tính đến 30/9/2025, toàn tỉnh đã giải ngân 64% kế hoạch vốn, đảm bảo tiến độ và mục tiêu đề ra.

Những con số biết nói cho thấy nỗ lực đáng ghi nhận: thu nhập bình quân của đồng bào dân tộc thiểu số tăng 2,1 lần so với năm 2020; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 7,5% mỗi năm, vượt xa kế hoạch. Tỷ lệ học sinh tiểu học đến trường đạt 99,8%, trung học cơ sở 98,2%, trung học phổ thông 83%. Trong khi đó, 98,5% đồng bào đã tham gia bảo hiểm y tế, 93% phụ nữ mang thai được thăm khám định kỳ; tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống giảm rõ rệt.
“Điều quan trọng nhất là nhận thức của người dân đã thay đổi. Họ không còn trông chờ, ỷ lại mà chủ động làm ăn, tham gia mô hình phát triển sinh kế, bảo vệ rừng, xây dựng nông thôn mới”, ông Nguyễn Trí Kiên – Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo Quảng Trị chia sẻ.
Hàng trăm công trình dân sinh mọc lên giữa vùng cao: 379 tuyến đường giao thông, 92 trường học, 103 nhà sinh hoạt cộng đồng, cùng nhiều công trình điện, nước, y tế được hoàn thành, góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn miền núi.
Riêng Dự án phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống đạt mức giải ngân 83,2% – con số ấn tượng trong điều kiện địa hình, thời tiết khắc nghiệt. Nhiều công trình nay đã trở thành điểm sáng du lịch cộng đồng gắn với văn hóa dân tộc Bru – Vân Kiều, Pa Cô.
Ở bản A Via (huyện Đakrông cũ), căn nhà sàn khang trang của chị Hồ Thị Kham, phụ nữ Bru – Vân Kiều, vừa là tổ ấm, vừa là homestay đón khách du lịch. Chị cười tươi nói:“Từ khi được hỗ trợ làm nhà và học cách làm du lịch, gia đình tôi có thêm nguồn thu ổn định, con cái được học hành. Bà con trong bản ai cũng phấn khởi làm ăn hơn trước”.
Không chỉ lo “no cơm, ấm áo”, Quảng Trị còn chú trọng giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống. Nhiều lễ hội, làn điệu dân ca, nghề thủ công được khôi phục; các đội văn nghệ truyền thống hoạt động thường xuyên, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần.
Thông qua Dự án 6 – Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa gắn với phát triển du lịch, tỉnh đã giải ngân hơn 131 tỷ đồng, hỗ trợ hàng chục địa phương khôi phục lễ hội, xây dựng điểm du lịch cộng đồng, quảng bá sản phẩm đặc trưng như rượu đoác, mây tre đan, dệt thổ cẩm.

Song song đó, Dự án phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị giúp hàng trăm hộ dân tham gia mô hình kinh tế mới, hình thành 10 chuỗi liên kết sản phẩm gắn với lợi thế địa phương – từ trồng dược liệu, phát triển rừng gỗ lớn đến chăn nuôi sinh kế bền vững.
Dù vẫn còn khó khăn như thiếu đất sản xuất, hạ tầng chưa đồng bộ, nhưng Quảng Trị đang nỗ lực khắc phục để hướng tới phát triển nhanh, bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong giai đoạn 2026–2030.
Mục tiêu đặt ra là giảm ít nhất 50% số xã, thôn đặc biệt khó khăn; hoàn thiện 100% cơ sở hạ tầng thiết yếu; nâng thu nhập đồng bào gấp 2,5 lần so với năm 2025; đồng thời đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển du lịch sinh thái, kinh tế rừng và mô hình sinh kế xanh.
“Đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc không chỉ là nhiệm vụ phát triển kinh tế, mà còn là nhiệm vụ chính trị, là trách nhiệm đối với đồng bào – những người đang ngày đêm gìn giữ biên cương của Tổ quốc”, ông Nguyễn Trí Kiên nhấn mạnh.
Từ những bản làng nơi đại ngàn Trường Sơn, ánh sáng của chủ trương, chính sách đã và đang lan tỏa đến từng nếp nhà, từng con người. Đó là hành trình của niềm tin, của sự đoàn kết và khát vọng vươn lên – để mỗi người dân vùng cao Quảng Trị không chỉ “thoát nghèo”, mà còn “sống tốt, sống bền” trên chính quê hương mình.