Chớp thời cơ “nghìn năm có một”, mau lẹ chuyển hướng chiến lược
(NB&CL) Hành trình để Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân phá thế “một cổ hai tròng”, thoát khỏi đêm trường nô lệ để đến với độc lập, tự do, không chỉ là từ việc tạo thế và lực từ những cao trào cách mạng liên tiếp mà còn nhờ nghệ thuật chớp thời cơ mau lẹ và tài tình. Nói như cố Tổng Bí thư Trường Chinh: “Mau lẹ, kịp thời nổ ra đúng lúc phải nổ - đó là một trong những ưu điểm nổi bật của Cách mạng Tháng Tám”.
Sớm “bắt mạch cơ hội ngàn năm”
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam - trong tình cảnh đất nước khó khăn, thua thiệt về mọi mặt, muốn cụ thể tổng khởi nghĩa giành chính quyền thành công, gọn, ít tổn thất có thể, chớp thời cơ chính là giải pháp tốt nhất để giành được thắng lợi nhanh chóng.
Cũng trên hành trình tìm kiếm con đường cứu nước, con đường cho cách mạng, cho độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ba điều kiện của thời cơ khởi nghĩa: Một là, chính quyền thực dân đế quốc đã lung lay bối rối đến cao độ, chúng đã cảm thấy không thể nào ngồi yên giữ địa vị của chúng như trước. Hai là, quần chúng nhân dân đói khổ đã căm thù thực dân đế quốc đến cực điểm, đã thấy cần phải đồng tâm hiệp lực, nổi dậy lật đổ ách thống trị của đế quốc thực dân, vì mọi người hiểu rằng nếu ngồi yên cũng chết. Ba là, đã có một chính đảng cách mạng đủ sức tổ chức lãnh đạo quần chúng nhân dân nổi dậy khởi nghĩa theo một đường lối đúng đắn, một kế hoạch phù hợp, bảo đảm giành thắng lợi cho cuộc tổng khởi nghĩa.
Soi chiếu vào bối cảnh Việt Nam cách đây hơn 80 năm, những thời cơ ấy đã hiển hiện ngày càng rõ ràng. Đó là việc năm 1930, Đảng ta ra đời, hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo toàn diện cách mạng Việt Nam; đó là dân ta đã trở nên quá bức bối dưới thế “một cổ hai tròng”; đó là việc tháng 6/1940, Chính phủ tư sản Pháp đầu hàng vô điều kiện quân Đức khiến thực dân Pháp ở Đông Dương hoang mang, bối rối….
Khi các điều kiện cho tổng khởi nghĩa đang dần tới chín muồi thì “chớp thời cơ” là điều mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đau đáu. Tháng 6/1940, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gấp rút họp Ban cán sự của Đảng ở nước ngoài đánh giá tình hình và xác định nhiệm vụ cho phong trào cách mạng trong nước, và nhận định: “Việc Pháp bại trận là cơ hội thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ là có tội với cách mạng”. Tháng 11/1940, Hội nghị Trung ương Ðảng lần thứ 7 (11/1940) nhận định về thời cơ của cách mạng Việt Nam: “Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Ðảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: Lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Ðông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập”.

Tháng 5/1941, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng tiếp tục đã dự báo: “Ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”. Nghị quyết của Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Tháng 10/1944, khi chiến tranh thế giới lần thứ II bắt đầu đi đến hồi kết, Bác Hồ nhận định: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp, ta phải làm nhanh”.
Tháng 7/1945, chiến tranh thế giới lần thứ 2 đi đến hồi cuối, phát-xít Nhật bại trận mất tinh thần và giữa tháng 8/1945 đã đầu hàng Đồng Minh. Thời điểm này 16.000 quân Anh chưa vào miền Nam và 200.000 quân Tưởng chưa vào miền Bắc để giải giáp quân Nhật; còn chính quyền tay sai thì như rắn mất đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh nắm bắt rất rõ về khả năng đầu hàng của quân Nhật cũng như tinh thần cách mạng sôi sục của quần chúng nhân dân, vì thế Người cho rằng phải chớp thời cơ “nghìn năm có một” này. Người ra chỉ thị: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Mau lẹ chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
Bên cạnh nghệ thuật chớp thời cơ, nhân tố làm nên kỳ tích cách mạng tháng Tám cách đây 80 năm còn nằm ở việc Đảng ta thích ứng và chuyển hướng rất mau lẹ theo diễn biến thời cuộc. Năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, căn cứ vào sự thay đổi tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta liên tiếp tổ chức các Hội nghị: lần thứ 6 (11/1939), lần thứ 7 (11/1940) và Hội nghị lần thứ 8 (5/1941).
Tại Hội nghị lần thứ 6, Đảng ta đã có một nhận định quan trọng: Trong điều kiện lịch sử cụ thể lúc này, vấn đề giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách nhất của cách mạng. Hội nghị nhấn mạnh: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”. Về phương pháp đấu tranh: Chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp. Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp, các giai cấp, các dân tộc, các cá nhân yêu nước tập trung đấu tranh vào kẻ thù chủ yếu trước mắt là chủ nghĩa đế quốc phát xít.
Hội nghị lần thứ 7 Trung ương Đảng (06/11/1940) nhận định: đế quốc Pháp thỏa hiệp, mở đường cho phát xít Nhật vào Đông Dương, gây ra bao tai họa không kể xiết đối với nhân dân ta. Để chống lại, nhân dân ta đã thực hiện nhiều hình thức cao của đấu tranh chính trị và bắt đầu kết hợp với đấu tranh vũ trang. Tuy những hình thức đấu tranh ấy chưa phổ biến và chưa quyết liệt, nhưng một cao trào mới sẽ bùng lên. Do vậy, “Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy sứ mệnh thiêng liêng, lãnh đạo các dân tộc bị áp bức ở Đông Dương vũ trang bạo động giành lấy quyền tự do, độc lập”.
Đặc biệt, dấu mốc quan trọng nhất, đánh dấu bước ngoặt lớn nhất trong sự chuyển hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (10-19/5/1941). Hội nghị đánh dấu bước tiến mới trong tư duy cách mạng và sự chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng khi nhấn mạnh: Nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng Đông DCũng tại Hội nghị, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã quyết định thành lập mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi mang tên Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) “nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu nghèo, trẻ già, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”.ương. Nhiệm vụ trước hết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải giành cho được độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Hội nghị đã khẳng định: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”.
Cũng tại Hội nghị, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã quyết định thành lập mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi mang tên Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) “nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu nghèo, trẻ già, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”.
Cũng từ quyết nghị tại Hội nghị Trung ương 8, Trung ương Đảng ra nghị quyết thành lập các đội tự vệ cứu quốc, tự vệ chiến đấu (tổ du kích) làm cơ sở cho đấu tranh ở địa phương, cũng như Tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước.
Có thể nói, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 năm 1941 có tầm quan trọng đặc biệt là hoàn chỉnh sự chuyển hướng chiến lược của Đảng, quán triệt tư tưởng tích cực chuẩn bị mọi mặt, tiến tới khởi nghĩa vũ trang trên phạm vi cả nước, giành chính quyền về tay nhân dân.