Thổi bùng các cao trào cách mạng, quyết phá thế “Một cổ hai tròng”
(NB&CL) Một Việt Nam, từ đêm trường nô lệ, đã vùng lên tiến hành thành công Cách mạng tháng Tám - 1945, lật đổ ách thống trị tàn bạo của thực dân phát xít, xóa bỏ chế độ quân chủ lỗi thời, giành độc lập dân tộc, thành lập Nhà nước dân chủ cộng hòa, thực sự là kỳ tích chói lọi. Nhưng, như nhìn nhận của các chuyên gia, nếu không có sự chuẩn bị kỳ công trong suốt 15 năm, thời cơ sẽ không đến để phá thế “một cổ hai tròng” thành công, trong đó có việc thổi bùng nên các cao trào cách mạng.
80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 (1945 - 2025):
Từ đêm trường nô lệ đến mùa thu độc lập
Tháng 8 năm 2025 này là tròn 80 năm kể từ ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa thực dân Pháp kéo dài hơn 80 năm, phát xít Nhật gần 5 năm và nỗi đau mất nước kéo dài gần một thế kỷ; đồng thời lật đổ chế độ phong kiến tồn tại cả ngàn năm, đưa Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc lập, đưa Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ thành người dân độc lập, tự do, làm chủ nước nhà. Báo Nhà báo và Công luận cùng nhìn lại những lát cắt chính yếu nhất của cuộc cách mạng vĩ đại cách đây 8 thập kỷ.
Thuở nô lệ, thân ta nước mất
Cuối thế kỷ XIX, triều đình phong kiến nhà Nguyễn suy tàn, Việt Nam nằm trong vùng có vị trí chiến lược của khu vực Đông Nam Á, giàu tài nguyên khoáng sản, trở thành mục tiêu tiến công xâm lược của các nước tư bản. Những âu lo rồi cũng hiện hữu.
Ngày 1/9/1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Vua quan nhà Nguyễn chống cự yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng Pháp. Năm 1884, nhà Nguyễn đã ký kết Hiệp định Patơnốt ngày 6/6 dâng nước ta cho thực dân Pháp. Từ đó, đất nước ta đắm chìm trong đêm trường nô lệ dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Chúng biến nước ta thành nước thuộc địa nửa phong kiến và dùng mọi thủ đoạn thâm độc khai thác tài nguyên, bóc lột dã man của cải và sức lao động của nhân dân ta để làm giàu cho chính quốc.
Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, thực dân Pháp tiến hành khủng bố tàn khốc, thẳng tay chém giết những người yêu nước, dìm những cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta trong bể máu, thủ tiêu các quyền tự do dân chủ tối thiểu mà nhân dân ta đã giành được trong thời kỳ Mặt trận dân chủ.
.jpg)
Nỗi cơ hàn, đọa đầy của dân ta đến đó chưa hết. Ngày 15/6/1940, Đức tấn công nước Pháp. Ngày 22/6/1940, Pháp đầu hàng Đức vô điều kiện. Lợi dụng cơ hội này, cuối tháng 9/1940, phát xít Nhật kéo quân vào Đông Dương, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp Việt Minh, quỳ gối đầu hàng, bán nước ta cho phát xít Nhật, từ đây nhân dân ta lâm vào cảnh phải chịu hai tầng xiềng xích, “một cổ hai tròng”.
Nỗi khổ nhục của tình thế “một cổ hai tròng”, cả dân tộc sống trong cái cảnh đau thương trên đe, dưới búa, “ngàn cân treo sợi tóc”, khẩn thiết và đau đớn đã được nhà thơ cách mạng nổi tiếng Tố Hữu gợi lại vô cùng chân thực nhưng cũng đầy xót xa trong bài thơ “30 năm đời ta có Đảng”: “Thuở nô lệ dân ta nước mất/Cảnh cơ hàn trời đất tối tăm/Một đời đau suốt trăm năm/Chim treo trên lửa, cá nằm dưới dao”, “Xóm làng ta xơ xác héo hon/Nửa đêm thuế thúc trống dồn/Sân đình máu chảy đường thôn lính đầy”, “Con đói lả ôm lưng mẹ khóc/Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi/Kiếp người cơm vãi cơm rơi/Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi”.
Đảng ta ra đời, thổi bùng các cao trào cách mạng
Nhiều nghiên cứu cho tới nay đã khẳng định rằng, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là minh chứng cho việc: “Cách mạng không tự nó đến, phải chuẩn bị nó, giành lấy nó”. Và Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận diện rất sớm, rất rõ điều này. Và đó cũng là lý do để ngay từ những năm tháng bôn ba hoạt động cách mạng trên đất khách quê người, khó khăn, nguy nan đủ mọi bề, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc vẫn quyết tâm tìm đường đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp cuối năm 1920, tìm cho ra con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc, nỗ lực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin trong phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị những tiền đề về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của một đảng cách mạng tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam.
Và ngày 3/2/1930, tại Hương Cảng (Trung Quốc), đảng cách mạng tiên phong ấy ra đời, khi Người chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về đường lối chính trị và về tổ chức của các phong trào yêu nước Việt Nam.

Từ thời khắc ngày 3/2/1930 ấy, như lời thơ Tố Hữu: “Đảng ta đưa dân nước ta đi...”, “Trống Xô-viết Nghệ An vang động/Bắc Trung Nam tràn sóng đấu tranh”, “Phong trào tạm lắng, phong trào lại lên...”… Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cao trào cách mạng liên tiếp nổ ra. Cao trào cách mạng 1930-1931 trong đó đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh được xem là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng Việt Nam để tiến tới giành chính quyền trên cả nước.
Sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Thượng Hải (Trung Quốc) tháng 7/1936, Đảng chủ trương lãnh đạo thành lập mặt trận dân chủ công khai và rộng rãi, bao gồm các giai cấp, các tôn giáo, các đảng phái, các đoàn thể chính trị,… nhằm tập trung chống kẻ thù cụ thể, trực tiếp trước mắt là chủ nghĩa phát xít và bọn phản động ở thuộc địa Việt Nam để bảo vệ hoà bình, đòi thực hiện tự do, dân chủ, cải thiện đời sống cho Nhân dân, cao trào dân chủ Đông Dương 1936-1939 bùng lên, tiếp tục cuộc tập dượt, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này khi trong quá trình đấu tranh, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp...
Cao trào giải phóng dân tộc 1939-1945 là bước chuẩn bị cuối cùng cho cách mạng mùa Thu. Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (tháng 9/1939), Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 6 (tháng 11/1939) để điều chỉnh chiến lược cách mạng với nội dung: giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ trọng tâm là chuẩn bị. Trong giai đoạn cao trào cách mạng này, Đảng ta đã có những Hội nghị lịch sử: Các Hội nghị Trung ương Ðảng (11/1939), (11/1940) và nhất là Hội nghị Trung ương 8 (5/1941) đã đề ra những quan điểm và biện pháp cơ bản chỉ đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thổi bùng lên cao trào kháng Nhật cứu nước; chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.
Yếu tố quyết định để dân tộc Việt Nam “phá thế một cổ hai tròng”, đứng lên đánh đổ chế độ thuộc địa, giải phóng dân tộc thành công là sự chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng về mọi mặt trong khoảng thời gian rất dài. Như nhìn nhận của Giáo sư, Tiến sỹ Mạch Quang Thắng: “Để đi đến Cách mạng tháng Tám, chúng ta đã chuẩn bị rất kỳ công, chuẩn bị cả đường lối, sự ra đời của Đảng năm 1930, của cả tổng diễn tập 1930-1931, cao trào cách mạng Xô viết - Nghệ Tĩnh, chuẩn bị cả khôi phục năm 1931-1935, chuẩn bị cả cao trào 1936-1939 và đặc biệt 1939-1945. Chuẩn bị chớp thời cơ, nắm tình thế cách mạng, chuẩn bị chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, chuẩn bị các mặt, phát động phong trào, kết hợp sức mạnh dân tộc, sức mạnh quốc tế”.