Sửa đổi Luật Công nghệ cao: Cần hành lang pháp lý đủ mạnh để tạo đột phá về công nghệ
(NB&CL) Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 10/8/2023 của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đi vào thực thi thì cũng là lúc yêu cầu sửa đổi Luật công nghệ cao được đặt ra.
Bài toán đặt ra lúc này là: sửa Luật như thế nào để Luật không chỉ là công cụ “quản lý” đơn thuần mà phải là công cụ “kiến tạo” đột phá, mang tầm nhìn dài hạn, tạo hành lang pháp lý đủ mạnh, đủ minh bạch, ổn định, hấp dẫn đối với các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ cao, từ đó tạo nên những đột phá về công nghệ, tạo bệ phóng vững chắc cho sự phát triển của đất nước.
Cần thiết sửa đổi luật
Luật Công nghệ cao được Quốc hội ban hành từ năm 2008, là đạo luật đầu tiên và duy nhất điều chỉnh về công nghệ cao tại Việt Nam.
Tuy nhiên, đến nay sau 16 năm, nhiều quy định trong Luật đã trở nên lỗi thời, thiếu đồng bộ với pháp luật chuyên ngành, không thể thực hiện được hoặc không còn phù hợp với thực tiễn.
Luật đã được sửa đổi ở phạm vi hẹp tại các điều khoản nhỏ năm 2013 (liên quan đến ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp) và năm 2014 (điều chỉnh nội dung liên quan theo Luật Đầu tư), tuy nhiên chưa có lần sửa đổi nào mang tính tổng thể để đáp ứng yêu cầu thực tiễn và phù hợp với bối cảnh pháp lý, kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế đang có nhiều thay đổi nhanh chóng, sâu sắc và nếu không được điều chỉnh, bổ sung một cách căn bản, đây sẽ là rào cản thúc đẩy phát triển công nghệ cao trong nước.
Hơn thế, việc sửa đổi Luật là bước đi cần thiết để thể chế hóa tinh thần của Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 10/8/2023 của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Qua đó tạo hành lang pháp lý minh bạch, ổn định và hấp dẫn đối với các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ cao, giúp hiện thực hóa mục tiêu, tầm nhìn đến năm 2045: Việt Nam có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50% GDP; là một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới; thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số.

Nhiều điểm mới về ưu đãi và phát triển đô thị công nghệ cao
Bố cục Dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) gồm 6 chương và 27 điều, giảm 8 điều và có sự thay đổi về cấu trúc, hình thức so với Luật Công nghệ cao hiện hành. Dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi) bao gồm 6 nhóm chính sách. Chính sách 1: Hoàn thiện khái niệm và tiêu chí về Công nghệ cao; Chính sách 2: Thiết kế lại hệ thống các chính sách và đối tượng hưởng chính sách ưu tiên, ưu đãi, hỗ trợ đầu tư; Chính sách 3: Khuyến khích phát triển hệ sinh thái Công nghệ cao; Chính sách 4: Bổ sung quy định về các mô hình khu Công nghệ cao, đô thị Công nghệ cao; Chính sách 5: Bổ sung và hoàn thiện các quy định quản lý nhà nước về Công nghệ cao, cơ chế quản lý, kiểm tra, giám sát và đánh giá hiệu quả; Chính sách 6: Bổ sung các quy định về yêu cầu chuyển đổi số toàn diện hoạt động Công nghệ cao.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, dự thảo Luật hoàn thiện khái niệm và tiêu chí về Công nghệ cao đảm bảo tính hiệu quả và cập nhật so với xu hướng công nghệ trên thế giới, phù hợp với bối cảnh, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của Việt Nam.
Định nghĩa Công nghệ cao được sửa theo hướng nhấn mạnh tính đột phá, lan tỏa và vai trò nền tảng của các ngành sản xuất, dịch vụ hiện đại. Sản phẩm Công nghệ cao không chỉ là sản phẩm mà còn bao gồm dịch vụ được tạo ra từ Công nghệ cao.
Dự thảo cũng bổ sung một chương riêng về phát triển công nghệ chiến lược, quy định từ nghiên cứu, thử nghiệm, ứng dụng, thương mại hóa, chuyển giao đến thu hút và phát triển nhân lực chất lượng cao.
Đáng chú ý, dự thảo bổ sung quy định về phát triển đô thị Công nghệ cao (tech city, smart tech zone) là nơi có khu Công nghệ cao làm hạt nhân, được quy hoạch, đầu tư hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đồng bộ, cơ chế quản trị hiện đại nhằm bảo đảm điều kiện sống, làm việc và sáng tạo hiện đại, bền vững để phát triển hệ sinh thái Công nghệ cao.
Cùng với đó, dự thảo quy định chuyển đổi số toàn diện hoạt động Công nghệ cao, bao gồm số hóa dữ liệu, hạ tầng, chính sách liên quan để vận hành trên nền tảng số và hệ thống quản trị thông minh.
Dự thảo cũng bổ sung các quy định khuyến khích doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tham gia đầu tư, nghiên cứu và thương mại hóa Công nghệ cao. Các viện nghiên cứu, trường đại học có hoạt động R&D sẽ được khuyến khích phát triển doanh nghiệp Công nghệ cao, thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
Đặc biệt, Dự thảo xác định công nghệ không chỉ là lĩnh vực ưu đãi đầu tư mà còn là trụ cột chiến lược bảo đảm an ninh kinh tế, quốc phòng và chủ quyền quốc gia. Luật cũng bổ sung khái niệm công nghệ chiến lược và công nghiệp chiến lược, nhằm tập trung phát triển. Chính sách ưu đãi được thiết kế lại minh bạch, hiệu quả hơn, mở rộng cho doanh nghiệp trong nước và khởi nghiệp. Các công nghệ lõi, công nghệ chiến lược như AI, bán dẫn được hưởng ưu đãi đặc biệt, đi kèm cam kết chuyển giao để mang lại lợi ích thực chất cho quốc gia.
Dự thảo chia công nghệ cao thành ba lớp: công nghệ lõi (Việt Nam phải tự làm và nắm giữ), công nghệ chiến lược (bảo đảm tự chủ) và công nghệ cao (để phát triển đất nước).
Khung pháp lý tốt phải đi cùng nguồn lực và cơ chế điều phối
Thảo luận về dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi), nhiều đại biểu Quốc hội đã nhấn mạnh tới quan điểm: khung pháp lý tốt phải đi cùng nguồn lực và cơ chế điều phối. Đơn cử như về nguồn lực tài chính cần chỉ rõ phân cấp/phân quyền, trách nhiệm của các bộ, ngành và địa phương để tránh trùng chéo, dàn trải, phải làm rõ cơ chế điều phối liên ngành, cơ chế thử nghiệm (sandbox) cho công nghệ mới...
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thanh Hải, cần làm rõ hơn nguồn lực thực hiện và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, cần quy định chỉ áp dụng các ưu đãi trong hoạt động sản xuất công nghệ cao trong thời gian doanh nghiệp đáp ứng các tiêu chí theo quy định. Đối với các dự án công nghệ cao tại vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo... nghiên cứu bổ sung chính sách miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, hỗ trợ vay vốn lãi suất 0% cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng số, ưu tiên cấp đất cho khu công nghệ cao.
Liên quan nghiên cứu và phát triển công nghệ, cần bổ sung ưu đãi cho hoạt động nghiên cứu công nghệ lõi, công nghệ mở, được tài trợ từ Quỹ phát triển KH&CN, đồng thời tránh chồng chéo với các quy định bố trí ngân sách trong Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo.
Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh (Đoàn Cần Thơ) thì cho rằng, các tiêu chí hiện nay còn chung chung, cần bổ sung yếu tố định lượng, như số lượng bằng sáng chế, mức đóng góp giá trị gia tăng, tỷ lệ nhân lực chất lượng cao tham gia… nhằm bảo đảm tính minh bạch, có thể đo lường và đánh giá. Đại biểu cũng đề nghị xây dựng danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư ngay trong Luật, làm căn cứ để xác định lĩnh vực cần khuyến khích, hỗ trợ hoặc ưu tiên chuyển giao công nghệ, thay vì chỉ chờ quy định chi tiết sau này của Chính phủ.
Trước đó, tại một số cuộc toạ đàm, hội thảo về dự thảo Luật, nhiều ý kiến cũng cho rằng, nhiều quy định về cơ chế ưu đãi và tiêu chí thành lập các khu công nghệ cao, đô thị công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao vẫn còn chung chung, chưa lượng hóa cụ thể, dễ tạo kẽ hở để lợi dụng chính sách. Theo đó, cần bổ sung quy định rõ ràng hơn, gắn với yêu cầu bảo đảm an ninh, an toàn đối với các dự án, doanh nghiệp, đặc biệt là các dự án, doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài.
Một điểm nhiều ý kiến cũng nhấn mạnh khi góp ý cho dự thảo Luật Công nghệ cao sửa đổi rằng, muốn có luật tốt, tính khả thi cao, thì phải “chốt” được khái niệm, thuật ngữ một cách chính xác, rõ ràng và dễ hiểu. Nếu khái niệm chưa được phân định rạch ròi sẽ gây khó khăn trong quá trình thực thi.
Đặc biệt, làm rõ cơ chế góp vốn bằng công nghệ, cần khung định giá và trách nhiệm pháp lý rõ ràng để bảo đảm minh bạch cũng là một trong những nội dung được hết sức quan tâm. Đại biểu Nguyễn Thị Thu Hà - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Ninh nhận xét, quy định về góp vốn bằng công nghệ là một trong những điểm mới trong Luật sửa đổi lần này, đây là một hướng giải quyết vấn đề đóng băng tài sản trí tuệ, thông qua việc góp vốn bằng bí quyết, bằng các giải pháp công nghệ mà người sở hữu đề xuất.
Tuy nhiên, đại biểu nhấn mạnh rằng việc cho phép các bên tự xác định giá trị góp vốn công nghệ có thể dẫn tới rủi ro thổi phồng giá trị, tạo vốn ảo và gây méo mó môi trường đầu tư vì vậy, cơ quan soạn thảo phải làm rõ cơ chế định giá, khuyến khích sử dụng dịch vụ đánh giá độc lập để tránh lạm dụng. Còn đại biểu Nguyễn Văn Huy - Đoàn ĐBQH tỉnh Hưng Yên thì cho rằng quy định này là “rất rủi ro”, trái với nguyên tắc của Luật Doanh nghiệp và có thể tạo điều kiện cho hành vi thổi giá công nghệ, chuyển giá hoặc trốn thuế, cần sửa đổi theo hướng bắt buộc định giá thông qua thỏa thuận hoặc tổ chức định giá độc lập, thay vì để các bên tự xác định.
Rõ ràng, để có một Luật Công nghệ cao thực sự phù hợp, khả thi, không chỉ là tạo môi trường thuận lợi cho phát triển, chuyển giao và thương mại hóa công nghệ cao, mà còn để nuôi dưỡng nguồn nhân lực công nghệ cao, hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, sẽ còn rất nhiều điểm cần phải được xem xét thấu đáo và điều chỉnh kịp thời. Nhưng đó cũng là việc phải làm và làm ngay nếu muốn hiện thực hoá những mục tiêu phát triển lớn của đất nước trong kỷ nguyên mới.