Ông Andrew Jeffries - Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam:

“Tôi tin tưởng kinh tế Việt Nam sẽ sớm hồi phục”

Chủ nhật, 02/01/2022 14:00 PM - 0 Trả lời

(NB&CL) Nhìn lại năm 2021 đầy khó khăn, phóng viên Báo Nhà báo & Công luận đã có cuộc trao đổi với ông Andrew Jeffries - Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam.

Đại dịch COVID-19 đã tạo ra cú sốc nghiêm trọng chưa từng có trên thế giới, ngay cả những quốc gia siêu cường kinh tế cũng phải chật vật tìm ra phương án vừa chống dịch hiệu quả, vừa đảm bảo phục hồi kinh tế. Nhìn lại năm 2021 đầy khó khăn, phóng viên Báo Nhà báo & Công luận đã có cuộc trao đổi với ông Andrew Jeffries - Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam.

+ Trong quý III/2021, lần đầu tiên GDP Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng âm, giảm 6,17%. Với tư cách là chuyên gia nghiên cứu lâu năm về kinh tế Việt Nam, ông nhìn nhận năm 2021 như thế nào?

- Trong 2 năm qua, đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi mặt của đời sống - xã hội - kinh tế của Việt Nam. Đặc biệt, đợt bùng phát đại dịch lần thứ 4, vào quý II/2021 là nghiêm trọng nhất.

toi tin tuong kinh te viet nam se som hoi phuc hinh 1

Ông Andrew Jeffries - Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam.

Tôi cho rằng, việc áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội kéo dài ở TP.HCM, đầu tàu kinh tế và địa phương đóng góp hơn 20% GDP của Việt Nam, cũng như các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã cản trở kỳ vọng tăng trưởng trong năm 2021, và tác động tiêu cực đến cuộc sống của người dân ở những khu vực bị cách ly.

Xét về bản chất, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay xuất phát từ cuộc khủng hoảng sức khỏe - y tế do đại dịch COVID-19. Vì thế, chỉ khi cuộc khủng hoảng sức khỏe - y tế được kiểm soát thì nền kinh tế mới có thể chuyển sang giai đoạn phục hồi. Cho đến thời điểm này, vắc-xin vẫn là lựa chọn duy nhất để kiểm soát đại dịch. Các nước phát triển có tỷ lệ dân số được tiêm chủng cao sẽ có khả năng phục hồi sớm hơn các nước đang phát triển với tỷ lệ dân số được tiêm chủng thấp hơn.

+ Ông có thể phân tích rõ hơn về những tác động của đại dịch COVID-19 đối với kinh tế Việt Nam?

- Những hậu quả mà đại dịch COVID-19 gây ra cho nền kinh tế và cuộc sống của người dân vô cùng đau đớn. Dù vậy, đại dịch cũng đã cảnh tỉnh chúng ta về những việc phải làm để sẵn sàng ứng phó với những cú sốc một khi đại dịch bùng phát trở lại.

Điều quan trọng nhất là cần phải có sự chuẩn bị về tư duy chiến lược và nguồn lực để đảm bảo cho ba yếu tố được coi như huyết mạch của nền kinh tế phải được bảo vệ an toàn và duy trì ngay cả khi đại dịch bùng phát trở lại và phải áp dụng trở lại các biện pháp giãn cách chặt chẽ.

Các “huyết mạch” này là nguồn cung cấp lương thực và thực phẩm, nguồn cung lao động và giao thông vận tải. Trong đó, duy trì giao thông vận tải một cách linh hoạt và sáng tạo trong điều kiện bình thường mới sẽ là động lực chính để luồng hàng hóa thương mại, bao gồm cả cung cấp thực phẩm, lao động và dịch vụ được lưu thông ngay cả trong trường hợp phải áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội chặt chẽ hơn. Sự chuẩn bị này không chỉ có ý nghĩa đối với ứng phó với đại dịch COVID-19, mà còn có ý nghĩa đối với các cú sốc sức khỏe - y tế trong tương lai.

+ Trong 2 năm qua, nhằm giảm thiểu những tác động của đại dịch, cũng như hỗ trợ nền kinh tế hồi phục và tăng trưởng, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều giải pháp, các gói hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động. Ông nhận định thế nào về những chính sách đã và đang được áp dụng để hỗ trợ nền kinh tế?

- Kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát, Chính phủ Việt Nam luôn đặt sức khỏe của người dân lên trên hết và trước hết. Mọi nỗ lực của Chính phủ đều hướng tới kiểm soát đại dịch và đẩy mạnh mua sắm vắc-xin và tiêm phòng.

Mặc dù nguồn cung vắc-xin toàn cầu bị thiếu hụt, nhờ những nỗ lực của Chính phủ, Việt Nam vẫn có được một lượng vắc-xin đáng kể để triển khai chiến dịch tiêm chủng cho người dân Việt Nam. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã kịp thời đưa ra các gói hỗ trợ đối với các doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng bởi đại dịch.

Những nỗ lực này rất đáng ghi nhận nhưng chưa đủ vì bên cạnh nhiệm vụ kiểm soát đại dịch, Việt Nam vẫn cần tiếp tục duy trì các hoạt động kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội hướng tới phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

toi tin tuong kinh te viet nam se som hoi phuc hinh 2

Chúng tôi đánh giá cao việc Chính phủ đưa ra quyết định kịp thời chuyển sang chiến lược mới nhằm thích ứng an toàn, ứng phó linh hoạt và kiểm soát hiệu quả đại dịch COVID-19, đồng thời tăng cường các biện pháp thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

Áp lực đang gia tăng lên hệ thống ngân hàng trong việc hạ lãi suất để cho vay nhiều hơn. Các khoản nợ xấu cũng đang gia tăng, hiện ước tính khoảng 7% tổng dư nợ và rất có thể ảnh hưởng đến phục hồi kinh tế trong trung hạn. Rất cần chính sách tài khóa để bổ sung những khoảng trống của chính sách tiền tệ.

Về chính sách tài khóa, những nỗ lực của Chính phủ trong việc kịp thời đưa ra những gói hỗ trợ người dân và doanh nghiệp rất đáng ghi nhận. Chúng tôi đánh giá cao việc Quốc hội và Chính phủ thông qua gói hỗ trợ miễn giảm thuế cho doanh nghiệp bị ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.

Về quy mô thì gói hỗ trợ này vẫn chưa hẳn đáp ứng được nhu cầu thực tế, nhưng sẽ có tác động hỗ trợ tích cực hơn đối với các doanh nghiệp, và thể hiện cam kết của Chính phủ trong việc đồng hành cùng doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn và trợ giúp doanh nghiệp phục hồi.

Có thể thấy được là đại dịch COVID-19 đã gây ra sức ép đối với ngân sách và thâm hụt ngân sách là điều khó tránh được. Nhưng nếu xem chính sách tài khóa như một chính sách trọng tâm trong thời gian tới hướng đến phục hồi tăng trưởng thì sự thâm hụt ngân sách này là thâm hụt tích cực vì đi vào khu vực tư nhân và hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp vượt qua khó khăn do đại dịch.

Thực tế nhiều quốc gia trong khu vực như Thái Lan và Malaysia đã buộc phải chấp nhận thâm hụt ngân sách và nâng trần nợ công từ 60% GDP lên 70% GDP để tạo điều kiện cho Chính phủ có thể huy động thêm nguồn vốn hỗ trợ cho phục hồi và tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, cần tăng chi tiêu của Chính phủ cho an sinh xã hội, đặc biệt là tăng cường hỗ trợ trực tiếp cho những nhóm người dễ bị tổn thương, bao gồm người lao động phi chính thức và người mất việc làm. So với các nước trong khu vực, chi cho an sinh xã hội trong ứng phó với đại dịch của Việt Nam là rất khiêm tốn. Việc tổ chức triển khai cũng cần phải linh hoạt hơn, cần tận dụng sức mạnh của kỹ thuật số để đảm bảo tiền hỗ trợ được chuyển nhanh chóng và kịp thời đến nhóm các đối tượng được thụ hưởng.

Trong bối cảnh đại dịch gây ra những gián đoạn trong chuỗi cung ứng toàn cầu và tác động mạnh đến các hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng và thương mại toàn cầu nói chung, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công được coi như một yếu tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phục hồi. Có ý kiến đề xuất Việt Nam nên huy động vốn trong nước để đủ cung cấp nguồn tài chính cho phục hồi kinh tế.

Nguồn bổ sung này sẽ là cần thiết, nhưng điều quan trọng hơn là cần giải ngân hết vốn đầu tư công với khoảng 250.000 tỷ đồng dự kiến cho năm 2021 vẫn chưa được giải ngân. Còn rất nhiều việc phải làm để tháo gỡ những vướng mắc về thủ tục, thu hồi đất, khó khăn trong việc huy động các nhà thầu trong điều kiện dịch bệnh vẫn còn diễn biến phức tạp, và nhiều thách thức khác.

+ Liệu năm 2022, kinh tế Việt Nam có thể hồi phục hay không, thưa ông?

- Đại dịch COVID-19 và các đợt áp dụng biện pháp phong tỏa, giãn cách xã hội kéo dài đã làm suy yếu tiêu dùng và đầu tư, hạn chế triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã điều chỉnh mức dự báo tăng trưởng xuống 3,8% trong năm 2021 và 6,5% trong năm 2022 thấp hơn so với dự báo đưa ra trước đây.

Tuy nhiên, kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi trở lại nếu đại dịch được kiểm soát vào cuối năm 2021 và đến quý II năm 2022, khi có hơn 70% dân số cả nước được tiêm chủng đầy đủ.

Việt Nam sẽ lấy lại đà tăng trưởng khi nhu cầu tiêu dùng trong nước phục hồi, giải ngân vốn đầu tư công được đẩy mạnh hơn nữa, các hoạt động xúc tiến mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các thị trường mới do các hiệp định tự do thương mại đem lại.

Thêm vào đó, sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu cũng thúc đẩy tăng trưởng hơn nữa của ngành sản xuất hướng tới xuất khẩu của Việt Nam.

Trong trung và dài hạn, ADB vẫn lạc quan về triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Sự lạc quan này hoàn toàn có cơ sở dựa trên những lợi thế và tiềm năng của Việt Nam đó là một tỷ lệ lớn dân số có khả năng kinh doanh và tầng lớp thu nhập trung bình đang gia tăng, khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường vào các thị trường lớn thông qua nhiều hiệp định tự do thương mại, một lực lượng lao động trẻ và nhiều năng lực, và một chính phủ cam kết đổi mới và hành động.

+ Xin chân thành cảm ơn ông!

Việt Vũ (Thực hiện)

Bình Luận

Tin khác

Bắc Ninh: Khởi công dự án nhà xưởng và nhà kho xây sẵn quy mô 14 ha tại khu công nghiệp Thuận Thành III

Bắc Ninh: Khởi công dự án nhà xưởng và nhà kho xây sẵn quy mô 14 ha tại khu công nghiệp Thuận Thành III

(CLO) Công ty Cổ phần Tập đoàn KCN Việt Nam (KCN Việt Nam)- nhà phát triển bất động sản công nghiệp chuyên nghiệp tại Việt Nam, vừa triển khai xây dựng dự án nhà xưởng và nhà kho xây sẵn với quy mô 14 ha tại KCN Thuận Thành III- Phân khu B, tỉnh Bắc Ninh.

Kinh tế vĩ mô
Nam Định: Cấp giấy chứng nhận đầu tư dự án FDI sản xuất vải lưới, đế giày có tổng vốn đầu tư 40 triệu USD

Nam Định: Cấp giấy chứng nhận đầu tư dự án FDI sản xuất vải lưới, đế giày có tổng vốn đầu tư 40 triệu USD

(CLO) Ban Quản lý các Khu công nghiệp (KCN) tỉnh Nam Định cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư dự án nhà máy may XIELONG Việt Nam tại KCN Dệt may Rạng Đông (Nghĩa Hưng).

Kinh tế vĩ mô
Tỉnh Bắc Ninh và Nam Ninh (Trung Quốc) ký kết tăng cường giao lưu kinh tế, thương mại và kết nối

Tỉnh Bắc Ninh và Nam Ninh (Trung Quốc) ký kết tăng cường giao lưu kinh tế, thương mại và kết nối

(CLO) Chiều 17/4, tại tỉnh Bắc Ninh, đại diện Thành phố Nam Ninh, Trung Quốc đã ký kết Bản ghi nhớ về tăng cường giao lưu kinh tế, thương mại với tỉnh Bắc Ninh.

Kinh tế vĩ mô
Nam Định: Triển khai kế hoạch xây dựng 3 khu công nghiệp mới

Nam Định: Triển khai kế hoạch xây dựng 3 khu công nghiệp mới

(CLO) 3 khu công nghiệp (KCN) gồm: Hải Long, Nam Hồng và Minh Châu nằm trong số 6 KCN mới được UBND tỉnh Nam Định đồng ý chủ trương cho lập quy hoạch và nằm trong số 10 KCN phát triển thêm theo Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Kinh tế vĩ mô
Đề xuất cấp khí LNG cho các doanh nghiệp và Nhà máy nhiệt điện LNG Thái Bình

Đề xuất cấp khí LNG cho các doanh nghiệp và Nhà máy nhiệt điện LNG Thái Bình

(CLO) Đây là một trong những nội dung được lãnh đạo Tổng Công ty Khí Việt Nam – CTCP (PV GAS) báo cáo đề xuất việc nghiên cứu, khảo sát đầu tư xây dựng dự án cung cấp khí LNG với tỉnh Thái Bình.

Kinh tế vĩ mô