Trung tướng Nguyễn Hữu Chính: 'Chúng ta không thể thay đổi quá khứ, nhưng có thể xoa dịu nỗi đau và xây dựng một tương lai nhân ái'
(CLO) Gần 50 năm sau chiến tranh, hậu quả chất độc da cam (CĐDC) vẫn đè nặng lên hàng triệu gia đình Việt Nam. Không chỉ dừng lại ở thế hệ đầu tiên, những di chứng này tiếp tục di truyền, tạo ra một cuộc khủng hoảng y tế và xã hội kéo dài nhiều thế hệ.
Trong cuộc trao đổi với phóng viên Báo Nhà báo và Công luận, Trung tướng Nguyễn Hữu Chính, Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam (NNCĐDC)/dioxin Việt Nam đã chia sẻ thẳng thắn về thực trạng, thách thức và hành trình đấu tranh vì công lý cho nạn nhân da cam – một hành trình không chỉ của Việt Nam mà còn là lời kêu gọi đến lương tri toàn cầu.
PV: Ông có thể chia sẻ tổng quan về thực trạng hiện nay của nạn nhân chất độc da cam Việt Nam?
Trung tướng Nguyễn Hữu Chính: Sau chiến tranh, ước tính có khoảng 4,8 triệu người Việt Nam bị phơi nhiễm CĐDC/dioxin, trong đó hơn 3 triệu người đã trở thành nạn nhân trực tiếp. Họ phải sống chung với những hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe như ung thư, dị tật bẩm sinh, rối loạn hệ thần kinh, nội tiết, và suy giảm chức năng sinh sản. Đáng lo ngại là di chứng CĐDC còn tiếp tục di truyền sang các thế hệ sau.

Theo thống kê, hiện có khoảng 75.000 người thuộc thế hệ thứ hai, 35.000 người thuộc thế hệ thứ ba và hơn 2.000 cháu thuộc thế hệ thứ tư đang gánh chịu hậu quả của chất độc hoá học. Mặc dù có gần 400.000 người được xác nhận là nạn nhân và được hưởng các chính sách trợ cấp, bảo hiểm y tế, nhưng thực tế, số người bị ảnh hưởng còn lớn hơn rất nhiều, có thể lên tới hơn 1 triệu người, bao gồm: người dân sinh sống tại các vùng bị phun rải hoá chất độc hại, cựu binh thuộc nguỵ quân - nguỵ quyền, cũng như con cháu của những người từng tham gia kháng chiến bị phơi nhiễm.
Đây là thách thức lớn, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tiếp tục mở rộng chính sách hỗ trợ, chăm sóc, và phục hồi chức năng toàn điện cho nạn nhân và gia đình họ.
PV: Hậu quả của chất độc da cam không dừng lại ở thế hệ đầu tiên. Điều đó đang đặt ra những thách thức gì đối với xã hội và công tác hỗ trợ, thưa ông?
Trung tướng Nguyễn Hữu Chính: Trước hết là thách thức về y tế và chăm sóc sức khoẻ lâu dài. Nhiều gia đình có từ hai đến ba thế hệ cùng mang di chứng dị tật và bệnh tật bẩm sinh, cần được chăm sóc y tế đặc biệt và điều dưỡng thường xuyên. Nhưng hệ thống y tế, nhất là ở vùng sâu vùng xa, vẫn còn thiếu về nhân lực, cơ sở vật chất và tài chính.
Thứ hai là thách thức về an sinh xã hội. Phần lớn nạn nhân gặp khó khăn trong sinh hoạt, học tập, lao động và hòa nhập cộng đồng. Dù đã có chính sách hỗ trợ, nhưng mức trợ cấp còn thấp, hệ thống giáo dục và đào tạo nghề cho nạn nhân chưa đồng bộ, gây áp lực lớn lên gia đình - nhất là những gia đình có nhiều người cùng là nạn nhân. Trong khi đó, mức trợ cấp hiện hành vẫn còn thấp so với nhu cầu thực tế.
Tóm lại, hậu quả CĐDC là một bài toán tổng hợp về y tế, giáo dục, sinh kế và công lý, đòi hỏi sự chung tay của toàn xã hội.
PV: Trong thời gian qua, Hội đã triển khai những chương trình hỗ trợ cụ thể nào hỗ trợ nạn nhân về y tế, giáo dục và sinh kế?
Trung tướng Nguyễn Hữu Chính: Trong thời gian qua, Hội NNCĐDC/dioxin Việt Nam đã triển khai nhiều chương trình cụ thể, thiết thực. Hằng năm trong dịp "Ngày vì NNCĐDC - 10/8" Trung ương Hội NNCĐDC/dioxin Việt Nam phát động các chương trình mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, khơi dậy sự quan tâm và chia sẻ của cộng đồng. Năm 2023, chủ đề là: "Khát vọng vươn lên"; Năm 2024, chủ đề là: "Thắp sáng tương lai"; Ngày 10/8 năm 2025 tới sẽ là "Theo Ánh bình minh"...
Hội đã phát huy vai trò là cầu nối, vận động nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia các Chương trình "Tết vì nạn nhân da cam"; Chương trình "Chung tay xoa dịu nỗi đau da cam"; Chương trình Triển lãm "Da cam - Lương tri và Công lý" hằng năm...
Ngoài ra, Hội còn tổ chức nhiều hoạt động tiêu biểu trên các lĩnh vực như:
Về y tế: Khám bệnh, cấp thuốc miễn phí cho hàng vạn nạn nhân; tổ chức phẫu thuật chỉnh hình, phục hồi chức năng; tặng xe lăn, xe lắc; hỗ trợ duy trì hệ thống trung tâm bảo trợ, phục hồi chức năng, xông hơi giải độc.
Về giáo dục: Cấp học bổng thường xuyên cho con, cháu nạn nhân; triển khai chương trình "Hạt giống hy vọng" của bà Masaco (Nhật Bản) hỗ trợ gần 200 học sinh; phối hợp dạy nghề, mở lớp hòa nhập.
Về sinh kế: Hỗ trợ vốn, con giống, chuyển giao kỹ thuật; xây dựng mô hình “Trang trại da cam”, “Tổ hợp tác da cam”; vận động xây dựng nhà tình nghĩa.
Riêng năm 2024, Hội các cấp đã vận động được 521 tỷ 454 triệu đồng từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Những chương trình này đã giúp cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nạn nhân.

PV: Ông có thể chia sẻ một số mô hình điển hình hoặc địa phương tiêu biểu trong công tác chăm sóc nạn nhân da cam?
Trung tướng Nguyễn Hữu Chính: Có rất nhiều mô hình sáng tạo và hiệu quả đã được triển khai:
Quảng Nam là địa phương tiêu biểu với mô hình phối hợp chặt chẽ giữa Hội, chính quyền và doanh nghiệp trong hỗ trợ sinh kế, xây nhà tình nghĩa, tổ chức chương trình “mẹ nuôi – con nuôi da cam”.
Đà Nẵng nổi bật với Trung tâm Bảo trợ xã hội cho nạn nhân da cam – nơi đón hàng trăm đoàn quốc tế mỗi năm đến thăm, giao lưu, hỗ trợ vật chất và tinh thần.
Thái Bình là mô hình “Hội ba cấp” (tỉnh, huyện, xã) cùng vào cuộc mạnh mẽ, có nhiều “triệu phú da cam” vươn lên từ mô hình sinh kế của Hội.
Chương trình "Hạt giống hy vọng" với sự hỗ trợ của bà Masaco (Nhật Bản) đã giúp gần 200 trẻ em có cơ hội học tập, phát triển.
Những mô hình này đều thể hiện tính sáng tạo, nhân văn và hiệu quả, đồng thời cho thấy vai trò tích cực của Hội các cấp, chính quyền địa phương và cộng đồng trong ông tác xoa dịu nỗi đau da cam.
PV: Vậy công tác huy động nguồn lực còn gặp khó khăn gì, thưa ông?
Trung tướng Nguyễn Hữu Chính: Khó khăn lớn nhất là nhận thức xã hội đặc biệt là giới trẻ về hậu quả CĐDC còn hạn chế. Nhiều người nghĩ đây là câu chuyện của quá khứ nên thiếu sự quan tâm, chia sẻ. Trong khi đó, nguồn lực tài chính của Hội chủ yếu dựa vào vận động xã hội, thiếu tính ổn định. Việc tiếp cận viện trợ quốc tế cũng gặp trở ngại do rào cản về ngôn ngữ, thủ tục hành chính phức tạp và yêu cầu cao về tính minh bạch, chuyên nghiệp.
Ở nhiều địa phương, cán bộ Hội mỏng, kiêm nhiệm hoặc đã lớn tuổi, thiếu điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện, kỹ năng vận động tài trợ. Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ cho Hội còn bất cập, thiếu cơ chế phối hợp đồng bộ giữ các ngành chức năng, nhất là trong bối cảnh có nơi mô hình tổ chức Hội đã sáp nhập, gây chồng chéo và ảnh hưởng đến hiệu quả công tác vận động nguồn lực.
Những hạn chế này đang đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao năng lực tổ chức Hội, đồng thời tăng cường truyền thông, hợp tác trong và ngoài nước để đa dạng hoá nguồn lực, góp phần xoa dịu nỗi đau da cam một cách thiết thực và bền vững.

PV: Hành trình đòi công lý cho nạn nhân đã được tiến hành như thế nào, thưa ông?
Trung tướng Nguyễn Hữu Chính: Có thể nói, hành trình đòi công lý cho các nạn nhân chất độc da cam là một hành trình đầy gian nan. Tiêu biểu là vụ kiện công ty hoá chất Mỹ của Hội NNCĐDC Việt Nam và gần đây là vụ kiện của bà Trần Tố Nga tại Toà án Pháp. Dù chưa có phán quyết có lợi, nhưng hành trình đó đã lan tỏa thông điệp nhân đạo, đánh thức lương tri quốc tế.
Song song, với các hoạt động pháp lý, chúng tôi luôn chú trọng, tăng cường hoạt động đối ngoại như tiếp các đoàn quốc tế, tổ chức triển lãm, tham gia vận động tại nhiều quốc gia châu Âu… Trong thời gian qua, Hội đã tổ chức và tham gia nhiều hoạt động đối ngoại quan trọng như chuyến thăm Việt Nam của Nhà vua và Hoàng hậu Bỉ, hay chuyến đi vận động tại một số nước châu Âu vừa qua của đoàn công tác Trung ương Hội. Những hoạt động này đã góp phần đưa tiếng nói của nạn nhân chất độc da cam Việt Nam đến gần hơn với cộng đồng quốc tế.
Mặc dù đến nay chúng ta chưa có được phán quyết có lợi từ các toà án quốc tế, nhưng điều quan trọng là hành trình ấy đã thắp lên ngọn lửa hy vọng, lan toả thông điệp nhân đạo và thức tỉnh lương tri nhân loại. Qua đó, thế giới hiểu rõ hơn về những mất mát mà người dân Việt Nam đang gánh chịu và cùng chúng ta chia sẻ trách nhiệm trong việc khắc phục hậu quả chiến tranh.
Tôi khẳng định, đây không chỉ là cuộc đấu tranh cho quyền lợi của những người bị ảnh hưởng, mà còn là một lời kêu gọi vì một thế giới công bằng, nhân văn, và không còn thảm hoạ da cam trong tương lai.
PV: Theo ông, vụ kiện của bà Trần Tố Nga có ý nghĩa như thế nào với phong trào đấu tranh vì nạn nhân da cam Việt Nam?
Trung tướng Nguyễn Hữu Chính: Vụ kiện của bà Trần Tố Nga là một sự kiện mang ý nghĩa rất đặc biệt, không chỉ đối với cá nhân bà mà còn đối với cả phong trào đấu tranh vì công lý cho NNCĐDC Việt Nam. Đây là lần đầu tiên một nạn nhân người Việt Nam mang quốc tịch Pháp khởi kiện trực tiếp các tập đoàn hóa chất Mỹ tại một Tòa án Pháp - quốc gia có hệ thống tư pháp độc lập, được quốc tế tôn trọng.
Thứ nhất, vụ kiện đã góp phần thức tỉnh dư luận quốc tế về thảm họa chất độc da cam mà nhân dân Việt Nam phải gánh chịu. Nó làm rõ hơn rằng chiến tranh không chi kết thúc bằng tiếng súng, mà di chứng của nó còn kéo dài đến nhiều thế hệ sau.
Thứ hai, về mặt pháp lý, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng vụ việc này đã tạo tiền lệ quan trọng và đặt ra câu hỏi lớn về trách nhiệm của các công ty hóa chất đa quốc gia đối với những gì họ đã gây ra trong chiến tranh.
Thứ ba, bản thân bà Trần Tố Nga đã trở thành biểu tượng của lòng quả cảm, kiên định và niềm tin vào công lý. Hành trình của bà cũng là hành trình đầu tranh của hàng triệu NNCĐDC, và cũng là tiếng nói đại diện cho những giá trị nhân đạo toàn cầu.
Thứ tư, vụ kiện giúp tăng cường sự ủng hộ quốc tế đối với Việt Nam trong việc kêu gọi khắc phục hậu quả chiến tranh, đồng thời củng cố tiếng nói của các tổ chức nhân đạo, giới luật sư, nhà khoa học và công chúng tiến bộ trên toàn thế giới.
Tôi cho rằng, dù còn nhiều khó khăn về mặt pháp lý, nhưng vụ kiện của bà Trần Tố Nga đã thắp lên ngọn lửa đấu tranh vì công lý, và chắc chắn nó sẽ còn để lại dấu ấn lâu dài trong lịch sử phong trào vì NNCĐDC Việt Nam.
PV: Những rào cản lớn nhất trong hành trình pháp lý và quốc tế hóa vấn đề là gì, thưa ông?
Trung tướng Nguyễn Hữu Chính: Thứ nhất là rào cản pháp lý quốc tế: các công ty Mỹ thường viện dẫn "miễn trừ trách nhiệm" vì thực hiện theo hợp đồng chiến tranh.
Thứ hai là chưa có tiền lệ pháp lý nào trên thế giới buộc các tập đoàn hóa học bồi thường nạn nhân.
Thứ ba, chúng tôi thiếu nguồn lực, không có tiềm lực tài chính mạnh như đối phương để theo đuổi vụ kiện hay chiến dịch truyền thông quốc tế.
Cuối cùng là rào cản về nhận thức của một bộ phận dư luận quốc tế vẫn chưa hiểu rõ hậu quả lâu dài của chất độc da cam.
Tuy vậy, chúng tôi không nản lòng. Càng khó khăn, chúng tôi càng kiên định. Càng nhiều rào cản, chúng tôi càng nỗ lực kết nối bạn bè quốc tế, tập hợp trí tuệ và tình thương để đấu tranh cho sự thật và công lý. Đó không chỉ là trách nhiệm đối với hàng triệu nạn nhân da cam Việt Nam, mà còn là lời cam kết vì một thế giới nhân đạo hơn, công bằng hơn.

PV: Hội đã có những hoạt động tuyên truyền, giáo dục nào để nâng cao nhận thức của cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ về hậu quả chất độc da cam?
Trung tướng Nguyễn Hữu Chính: Chúng tôi coi công tác tuyên truyền, giáo dục là nhiệm vụ trọng tâm. Ngoài việc nâng cao chất lượng Tạp chí Da cam Việt Nam và phối hợp các cơ quan báo chí, truyền hình ở Trung ương và địa phương. Ngoài ra, Hội còn tổ chức các triển lãm ảnh "Da cam- Lương tri và công lý" hằng năm, giao lưu nghệ thuật, chương trình “Đi bộ vì nạn nhân da cam” thu hút sự tham gia của đông đảo học sinh, sinh viên.
Nhiều cuộc thi như "Tuổi trẻ với nạn nhân da cam", "Vì một thế giới không chất độc da cam", các chương trình tình nguyện như “Xuân nhân ái”, “Đồng hành cùng em da cam đến trường”... đã giúp lan tỏa tinh thần nhân ái, trách nhiệm cộng đồng. Đặc biệt, Hội còn tổ chức các chương trình giao lưu, gặp mặt nhân chứng lịch sử... nhằm thu hút sự quan tâm của toàn xã hội và tạo dấu ấn truyền thông sâu rộng.
Thông qua các hoạt động này, nhận thức của động đồng, nhất là giới trẻ, đã từng bước được nâng lên. Nhiều bạn trẻ không chỉ hiểu hơn về nỗi đau da cam mà còn tích cực tham gia các hoạt động thiện nguyện, hỗ trợ nạn nhân bằng hành động cụ thể. Đây chính là nguồn lực xã hội quan trọng để lan toả tinh thần nhân đạo và nghĩa tình trong công cuộc xoa dịu nỗi đau da cam.
PV: Theo ông, giới trẻ Việt Nam hiện nay hiểu và quan tâm như thế nào đến vấn đề da cam? Hội có những chương trình gì dành riêng cho họ?
Trung tướng Nguyễn Hữu Chính: Có thể nói, giới trẻ Việt Nam ngày nay đang ngày càng quan tâm hơn đến các vấn đề xã hội, trong đó có hậu quả của chất độc da cam/dioxin. Tuy nhiên, mức độ hiểu biết và sự quan tâm còn chưa đồng đều. Phần lớn các bạn trẻ sinh ra trong thời bình, không có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với những nỗi đau và di chứng chiến tranh nên chưa cảm nhận hết được mức độ nghiêm trọng của vấn đề.
Dẫu vậy, chúng tôi rất mừng khi thấy nhiều thanh thiếu niên đặc biệt là học sinh, sinh viên, đoàn viên thanh niên tình nguyện đang ý thức rõ hơn về trách nhiệm của mình với cộng đồng. Họ tích cực tham gia các hoạt động thiện nguyện, cuộc thi tìm hiểu, và có nhiều việc làm cụ thể hướng tới nạn nhân da cam.
Để khơi dậy và bồi đắp tinh thần trách nhiệm, lòng nhân ái trong thế hệ trẻ, Hội đã và đang triển khai nhiều chương trình riêng dành cho họ, như:
Tổ chức giao lưu, tọa đàm, nói chuyện chuyên đề phối hợp với Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên, các trường đại học, cao đẳng… nhằm giúp các bạn trẻ hiểu đúng, cảm nhận sâu sắc hơn về hậu quả chất độc da cam.
Phát động các cuộc thi sáng tạo như viết “Tuổi trẻ với nạn nhân da cam”, vẽ tranh “Vì một thế giới không chất độc da cam” – những hình thức gần gũi, phù hợp với tư duy và thói quen truyền thông của giới trẻ hiện đại.
Triển khai các chương trình tình nguyện như “Áo ấm mùa đông”, “Xuân nhân ái”, “Đồng hành cùng em da cam đến trường”… giúp thanh niên có cơ hội trực tiếp gặp gỡ, sẻ chia, từ đó nuôi dưỡng sự cảm thông và tinh thần dấn thân vì cộng đồng.
Tăng cường truyền thông số trên mạng xã hội bằng các video ngắn, câu chuyện truyền cảm hứng, nội dung sinh động… để giới trẻ dễ tiếp cận và lan tỏa thông điệp nhân văn.
Chúng tôi tin rằng, giới trẻ chính là lực lượng kế thừa quan trọng trong hành trình xoa dịu nỗi đau da cam và đấu tranh vì công lý. Với tình cảm chân thành, nhận thức đúng đắn và hành động cụ thể, họ sẽ là cầu nối giữa quá khứ đau thương và tương lai nhân ái để không ai bị lãng quên, không ai bị bỏ lại phía sau.

PV: Trong thời gian tới, Hội sẽ ưu tiên những hướng đi nào để nâng cao hiệu quả hỗ trợ và đẩy mạnh hành trình đòi công lý?
Trung tướng Nguyễn Hữu Chính: Thời gian tới, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam sẽ tập trung vào 5 hướng ưu tiên:
Một là, nâng cao hiệu quả hỗ trợ nạn nhân, nhất là về y tế, phục hồi chức năng, giáo dục và sinh kế. Hội chú trọng mô hình kết hợp hỗ trợ trực tiếp và phục hồi toàn diện, phát triển trung tâm chăm sóc bán trú, hỗ trợ tâm lý đặc biệt với trẻ em và người bị di chứng nặng.
Hai là, đa dạng hóa và bền vững hóa nguồn lực. Hội mở rộng kết nối với các tổ chức quốc tế, doanh nghiệp, cá nhân hảo tâm; xây dựng chương trình xã hội hóa có chiều sâu, đảm bảo đúng đối tượng, đúng nhu cầu.
Ba là, đẩy mạnh công tác truyền thông, đặc biệt hướng đến giới trẻ và cộng đồng quốc tế, thông qua các chiến dịch số, diễn đàn, cuộc thi… để lan tỏa thông điệp “Xoa dịu nỗi đau – Đòi lại công lý”.
Bốn là, tăng cường hoạt động đối ngoại và pháp lý. Hội tiếp tục đồng hành cùng bà Trần Tố Nga trong vụ kiện tại Pháp; đồng thời vận động quốc tế thiết lập cơ chế tài phán công bằng cho nạn nhân chiến tranh hóa học, hợp tác với tổ chức nhân quyền, luật sư, nghị sĩ tiến bộ.
Năm là, củng cố tổ chức Hội vững mạnh, chuyên nghiệp và gần dân hơn; nâng cao năng lực cán bộ, phát triển đội ngũ cộng tác viên trẻ giàu chuyên môn và tâm huyết để tiếp nối sự nghiệp nhân đạo này.
PV: Cuối cùng, ông có điều gì muốn gửi gắm tới cộng đồng trong và ngoài nước để cùng đồng hành với nạn nhân chất độc da cam Việt Nam?
Trung tướng Nguyễn Hữu Chính: Gần 50 năm sau chiến tranh, nỗi đau da cam vẫn chưa nguôi. Hàng triệu nạn nhân kể cả thế hệ thứ hai, thứ ba vẫn đang ngày ngày chống chọi với bệnh tật, nghèo đói, thiệt thòi, trong khi hành trình đòi công lý vẫn đầy gian nan.
Với cương vị Chủ tịch Hội, tôi tha thiết kêu gọi cộng đồng trong và ngoài nước tiếp tục quan tâm, sẻ chia và đồng hành với những con người không gây ra chiến tranh nhưng đang phải gánh chịu hậu quả nặng nề của nó.
Mỗi hành động dù nhỏ như một suất học bổng, một mái nhà nhân ái, một bài báo, hay chỉ là một cái chia sẻ trên mạng, một ánh nhìn cảm thông… đều là viên gạch xây nên cây cầu nhân ái nối quá khứ và tương lai.
Tôi mong cộng đồng quốc tế - những người yêu chuộng hòa bình và công lý không quên Việt Nam, không quên hàng triệu nạn nhân da cam, và không im lặng trước những bất công mà họ đang gánh chịu.
Chúng ta không thể thay đổi quá khứ, nhưng có thể cùng nhau làm dịu nỗi đau, thắp lên hy vọng, góp phần xây dựng một thế giới nhân văn, công bằng không còn chất độc da cam trong tương lai.
Xin chân thành cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự ủng hộ sâu sắc, bền vững của tất cả quý vị!
PV: Xin trân trọng cảm ơn ông về cuộc trao đổi này!