Xã hội

'Vẽ lại giang sơn về hành chính' cần thiết phải 'vẽ lại giang sơn giáo dục đại học'

Văn Hiền 13/10/2025 10:21

(CLO) Giáo dục đại học Việt Nam đang “phình to” nhanh chóng, mang lại cơ hội học tập rộng mở nhưng cũng kéo theo nghịch lý: sinh viên tốt nghiệp nhiều, việc làm ít. Do đó, việc sáp nhập hoặc giải thể sau làn sóng mở rộng thiếu kiểm soát là điều cần thiết.

Trong cuộc trao đổi với phóng viên Báo Nhà báo & Công luận, Trung tướng, GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Viện trưởng Viện An ninh phi truyền thống, Trường Quản trị và Kinh doanh (Đại học Quốc gia Hà Nội), nguyên Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân đã đề xuất 4 giải pháp nhằm tăng tính hiệu quả và bền vững trong quá trình sáp nhập các trường đại học.

xuan-yem-17601609099561234493545.jpg
GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Viện trưởng Viện An ninh phi truyền thống, Trường Quản trị và Kinh doanh.

+ Số lượng trường đại học tăng nhanh nhưng chất lượng đào tạo và cơ hội việc làm chưa tương xứng, theo GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, chúng ta cần nhìn nhận vấn đề này như thế nào?

- Việc mở rộng mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học trong thời gian qua đã góp phần tăng cơ hội học tập và thúc đẩy cạnh tranh giữa các trường. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh nhưng thiếu đồng bộ về kiểm soát chất lượng khiến nhiều sinh viên ra trường khó tìm việc làm, buộc một số cơ sở phải giải thể, sáp nhập hoặc chuyển đổi mô hình.

Ngành sư phạm - “máy cái” của nền giáo dục hiện có 103 cơ sở đào tạo giáo viên, trong đó 15 trường sư phạm, 70 trường đại học và cao đẳng có đào tạo giáo viên. Dù số lượng lớn, nhưng các trường phân bố dàn trải, thiếu kết nối, chất lượng chưa đồng đều.

Chính sách thu hút người học chưa hấp dẫn, nội dung đào tạo chậm đổi mới, thực hành còn ít. Nhiều cơ sở vẫn đào tạo theo hướng nặng lý thuyết, thiếu gắn kết với thực tiễn trường học, trong khi nguồn lực và đội ngũ giảng viên chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.

Ngành luật cũng đang trong tình trạng tương tự. Cả nước hiện có 79 cơ sở đào tạo cử nhân luật, trong đó 28 cơ sở tư thục (chiếm 35,4%). Ngoài những trường đầu ngành như Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật TP HCM hay Khoa Luật (Đại học Quốc gia Hà Nội), nhiều cơ sở đào tạo nhỏ lẻ, mỗi năm chỉ tuyển vài chục sinh viên, thiếu giảng viên cơ hữu và giáo trình đạt chuẩn.

486525585_653453100639933_7548112065774636811_n.jpg
Xây dựng các nhà trường, trung tâm, viện nghiên cứu, tạp chí khoa học liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài.

Ở bậc sau đại học, có 39 cơ sở đào tạo thạc sĩ và 10 cơ sở đào tạo tiến sĩ luật, song chất lượng đào tạo thực hành và chuẩn hóa nghề nghiệp vẫn là điểm yếu.

Ngành y dược là lĩnh vực đặc thù và đòi hỏi chuẩn đầu ra cao hiện có khoảng 30 trường đại học đào tạo bác sĩ đa khoa. Số lượng bác sĩ ra trường tăng nhanh, từ khoảng 8.000 người/năm (2015–2016) lên gần 10.000 người năm 2023.

Tuy nhiên, việc mở thêm các trường mới, đặc biệt là tư thục, đang đặt ra thách thức trong đảm bảo chất lượng, năng lực giảng dạy và thực hành lâm sàng.

Bên cạnh đó, các ngành kinh tế – quản trị kinh doanh cũng đang nở rộ, nhưng phần lớn chương trình đào tạo còn thiên về “kỹ năng làm giàu”, thiếu nội dung về đạo đức và quản trị rủi ro, dẫn tới nhiều hệ lụy trong thực tế.

+ Việc sắp xếp, hợp nhất các cơ sở giáo dục đại học có phải là hiện tượng mới trên thế giới?

- Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp và Đức đều tiến hành tái cấu trúc, sáp nhập đại học để khắc phục phân tán nguồn lực, nâng cao sức cạnh tranh và tạo ra các trường tầm vóc quốc tế. Tiêu biểu, giai đoạn 1996–2001, Trung Quốc sáp nhập 385 cơ sở thành 164, hình thành các đại học tổng hợp mạnh như Phúc Đán. Hàn Quốc cũng thúc đẩy xu hướng này do dân số giảm, với mô hình “glocal” kết hợp toàn cầu và địa phương, tiêu biểu là việc sáp nhập Đại học Quốc gia Changwon với 2 cao đẳng vùng, hướng tới nâng cao hiệu quả và chất lượng đào tạo.

+Từ góc nhìn của một người nghiên cứu giáo dục và đồng thời là nhà quản lý đại học, chúng ta cần triển khai những biện pháp nào để nâng cao hiệu quả trong quản trị và phát triển giáo dục đại học hiện nay thưa giáo sư?

-Thứ nhất, cần hình thành các đại học lớn, đại học đa tầng gồm: Đại học Quốc gia (tinh hoa), Đại học vùng (phục vụ khu vực), Đại học địa phương và đại học ngành (đào tạo nhân lực cho địa phương, ngành, lực lượng).

Việc sáp nhập theo mô hình “tập đoàn giáo dục” sẽ giúp hệ thống vận hành như dây chuyền sản xuất tri thức, thay vì manh mún như hiện nay. Mục tiêu là giảm số trường đại học từ 264 xuống khoảng 100–130, tạo mạng lưới hiệu quả, đa ngành, đa lĩnh vực.

Theo Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm giai đoạn 2021–2030, đến năm 2050 sẽ hình thành 50–60 trung tâm đào tạo trình độ tiến sĩ, sắp xếp lại các trường sư phạm, nghệ thuật, thể thao, và tái cấu trúc hệ thống đại học công lập.

540978720_1201386632021517_3803806016849317805_n.jpg
Kết hợp hài hoà giữa tinh, gọn với tự chủ cao, tăng cường quản trị đại học, nêu cao trách nhiệm người thầy và tăng quyền cho Hiệu trưởng trường Đại học.

Cần tập trung đầu tư mạnh cho Đại học Quốc gia, Đại học vùng, mở thêm các đại học khu vực như Tây Bắc, Tây Nguyên, Cần Thơ. Chỉ những địa phương có nền công nghiệp và doanh nghiệp lớn mới nên được thành lập đại học. Các trường yếu kém, đơn ngành cần sáp nhập hoặc giải thể.

3 nhóm ngành cần thu gọn, kiểm soát chặt chẽ gồm: sư phạm, y – dược và luật. Đối với ngành luật, y, sư phạm chỉ giữ lại khoảng 10 cơ sở đào tạo trọng điểm trên toàn quốc. Các trường cao đẳng sư phạm được sáp nhập vào đại học đa ngành để đảm bảo liên thông. Đào tạo kinh tế, quản trị, công nghệ cao, an ninh mạng, bán dẫn được định hướng tinh gọn, tập trung vào nhu cầu phát triển quốc gia.

Thứ hai, kết hợp tinh gọn với tự chủ đại học và tăng cường quản trị. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phân cấp, phân quyền, chỉ “nắm chắc điều cần nắm, buông dứt khoát điều cần buông”. Trao quyền mạnh mẽ hơn cho Hiệu trưởng/Giám đốc, đồng thời gắn trách nhiệm cá nhân với hiệu quả quản trị.

Kinh nghiệm từ Học viện Cảnh sát nhân dân cho thấy, mô hình “cơ sở quyết – cơ sở chịu trách nhiệm” giúp phát huy nguồn lực xã hội hóa và quốc tế hóa giáo dục. Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị khẳng định cơ chế Hiệu trưởng là Bí thư Đảng ủy, tăng tính thống nhất trong lãnh đạo nhà trường.

Thứ ba, đẩy mạnh hiện đại hóa giáo dục đại học đến năm 2030. Tập trung hiện đại hóa chương trình đào tạo, cơ sở vật chất, nhân lực và quản trị. Ứng dụng chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, xây dựng đại học thông minh, xanh, phát thải ròng bằng 0. Nhà nước giao các đại học lớn chủ trì chương trình khoa học – công nghệ quốc gia, khuyến khích giảng dạy bằng tiếng Anh, tăng cường kiểm định quốc tế.

z7110494681539_4e9012531a3265ba740d65736ef72a50.jpg
Một góc khuôn viên Trường Đại học Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

Thứ tư, mở rộng hợp tác quốc tế để hình thành các trường đại học quốc tế Việt Nam. Tiếp tục phát triển các mô hình Việt – Đức, Việt – Nhật, Việt – Pháp, RMIT, khuyến khích đại học nước ngoài đầu tư, mở chi nhánh tại Việt Nam. Thu hút nhà khoa học quốc tế, hình thành viện nghiên cứu và tạp chí khoa học liên doanh.

Chúng ta đã “vẽ lại giang sơn về hành chính”, cần thiết phải “vẽ lại giang sơn giáo dục và đào tạo” nói chung “vẽ lại giang sơn giáo dục đại học” nói riêng để có thể đào tạo đầy đủ và với nguồn nhân lực chất lượng cao cho kỷ nguyên phát triển mới-kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Hiện nay cả nước có hơn 260 cơ sở giáo dục Đại học (chưa kể các trường thuộc khối quốc phòng - an ninh) bao gồm 2 Đại học Quốc gia, 3 Đại học vùng, 4 đại học khác và 255 trường Đại học, học viện trong đó 171 cơ sở giáo dục Đại học trực thuộc các bộ, ngành, cơ quan Trung ương, 26 cơ sở giáo dục Đại học trực thuộc Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố thực thuộc trung ương và 77 cơ sở giáo dục Đại học tư thục

    Nổi bật
        Mới nhất
        'Vẽ lại giang sơn về hành chính' cần thiết phải 'vẽ lại giang sơn giáo dục đại học'
        • Mặc định

        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO