Kinh tế

Việt Nam hướng tới tăng trưởng 2 con số: Cần động lực mới, mô hình mới

Việt Vũ 25/08/2025 09:37

(CLO) Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 8% năm 2025 và vượt 10% trong giai đoạn 2026–2030. Để đạt được bước ngoặt này, nền kinh tế cần một “cú hích” đủ mạnh để thoát khỏi mô hình tăng trưởng cũ.

Việt Nam cần "cú hích” đủ mạnh nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng

Việt Nam đã đặt ra mục tiêu tăng trưởng rất cao trong tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, trong năm 2025, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP tăng 8%, tiến tới vượt mốc hai con số (từ 10% trở lên) trong giai đoạn 2026 - 2030.

Đây là mục tiêu mang tính bước ngoặt, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa Chính phủ, các bộ, ngành, chính quyền địa phương và đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp.

Việt Nam cần thiết kế các cơ chế, chính sách để kết nối khu vực kinh tế tư nhân với chiến lược phát triển quốc gia. (Ảnh: ST)
Việt Nam hướng tới tăng trưởng kinh tế 2 con số. (Ảnh: ST)

Tuy nhiên, các động lực tăng trưởng truyền thống như khai thác tài nguyên, đầu tư công, lao động giá rẻ hay xuất khẩu gia công dần suy giảm hiệu quả và tính bền vững, do đó, nền kinh tế Việt Nam đứng trước yêu cầu tất yếu là phải tìm ra các động lực mới mang tính đột phá.

TS Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế đánh giá, trước thực trạng này, làm thế nào để tạo được “cú hích” đủ mạnh nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đưa đất nước bước vào một chương phát triển mới: thịnh vượng, bền vững và tự chủ hơn - trở thành một câu hỏi chiến lược mang tính sống còn.

“Đây không chỉ là một thách thức về kinh tế, mà còn là bài toán lớn về tầm nhìn, thể chế và năng lực hành động”, ông Lực nói.

Trong thế giới biến đổi, việc xác định và hiểu đúng về bối cảnh mới trong trung và dài hạn sẽ giúp Việt Nam có những chiến lược đúng đắn trong điều hành và phát triển kinh tế.

Về bối cảnh thế giới, hiện nay, sự gia tăng của rủi ro bất định toàn cầu khiến đà tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại – từ mức 3,3% giảm còn 2,5% theo thống kê mới nhất của Ngân hàng Thế giới. Cùng lúc, lạm phát thế giới tăng mạnh từ mức 2% lên 2,5 – 3%.

“Hai rủi ro dài hạn, chúng ta cần đặc biệt lưu ý là biến đổi khí hậu và thay đổi cơ cấu dân số học – những yếu tố có thể làm xói mòn nền tảng tăng trưởng nếu không được xử lý kịp thời”, ông Lực nhấn mạnh.

Cùng với đó, vấn đề thuế đối ứng, hiện vẫn chưa có kết quả cuối cùng, nhiều dự đoán là kết quả thuế đối ứng của Việt Nam tương đối thuận lợi nhưng Việt Nam vẫn đề phòng các rủi ro nhất định.

Tuy nhiên, TS Cấn Văn Lực cho rằng, Việt Nam không bi quan vì thế giới vẫn còn 3 thuận lợi cơ bản mà Việt Nam có thể tận dụng, đó là: khoa học – công nghệ, đặc biệt là AI và chuyển đổi số, mở ra không gian phát triển mới; Sức chống chịu của kinh tế toàn cầu và Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt sau đại dịch và các cú sốc toàn cầu.

Cuối cùng là cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu đang tái định hình, tạo dư địa mới nếu Việt Nam hành động nhanh và khôn ngoan.

Những trụ cột tăng trưởng của kinh tế Việt Nam

Theo ông Lực, tăng trưởng cao trong giai đoạn tới bắt buộc phải gắn với bền vững trên 4 trụ cột: Kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường.

Đặc biệt, Việt Nam cần xem xét lại cơ cấu nền kinh tế, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sử dụng vốn và khả năng chống chịu nội tại, tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.

Ông Lực phân tích, hiện nay tăng trưởng của Việt Nam vẫn dựa nhiều vào vốn (chiếm 49–50%), trong khi năng suất lao động đóng góp khoảng 5% và yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) đóng góp 45%.

Để chuyển sang mô hình tăng trưởng bền vững và hiệu quả hơn, chúng ta cần nâng tốc độ tăng năng suất lao động lên ít nhất 6,5 – 7%/năm trong giai đoạn 2026–2030, tương đương mức tăng của Đài Loan thời kỳ bứt phá; Tăng tỷ trọng đóng góp của TFP từ 45% hiện tại lên 55 – 60% đến năm 2045.

Đặc biệt, việc đổi mới mô hình tăng trưởng không thể tiếp tục "tuần tự tiến lên" như trước kia. Thay vì đi theo lộ trình 3I (Đầu tư – Nhập công nghệ – Đổi mới sáng tạo) một cách tách rời, Việt Nam cần thực hiện cả "3I đồng thời", ngay từ bây giờ.

“Lý do vì sao, nếu chậm, Việt Nam sẽ tiếp tục lỡ cơ hội trong cuộc đua tăng trưởng. 3I đồng thời là mô hình phù hợp hơn trong bối cảnh AI, chuyển đổi số và cạnh tranh toàn cầu đang ngày một gay gắt”, ông Lực cho biết.

Bên cạnh ba đột phá truyền thống (thể chế, hạ tầng, nhân lực), hai đột phá chiến lược bổ sung: Khoa học công nghệ và chuyển đổi số: Không chỉ là xu hướng, mà là điều kiện sống còn để Việt Nam cạnh tranh; Chống lãng phí và tiết kiệm nguồn lực: Phải đưa vào chiến lược quốc gia, chứ không chỉ dừng ở các khẩu hiệu tuyên truyền.

Không thể chỉ kêu gọi tiết kiệm, mà phải thiết kế chiến lược chống lãng phí như một chính sách quốc gia chủ đạo. Để hiện thực hóa các chiến lược tăng trưởng, “nguồn lực thể chế” đóng vai trò tối quan trọng. Cơ chế, chính sách cần thông thoáng, minh bạch, dễ thực thi, trở thành lực đẩy chứ không là vật cản.

Việt Nam cần sớm chú ý huy động nguồn lực trong dân (vàng, tiết kiệm) và phát triển thị trường tín chỉ carbon – lĩnh vực có thể đem lại nguồn thu lớn nếu được vận hành đúng cách; Cải cách mạnh mẽ khu vực tài chính, đặc biệt là tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn cho đổi mới sáng tạo.

“Cuối cùng, tôi cho rằng nguy cơ khủng hoảng bong bóng khi tăng trưởng nóng, nhất là ở hai thị trường dễ "sốt ảo" là tài chính và bất động sản cũng là vấn đề đáng lo ngại bởi có tới 70% khủng hoảng kinh tế trên thế giới đều bắt nguồn từ hai thị trường này”, ông Lực nói.

Để giải quyết các vấn đề này, ông Lực cho rằng, Việt Nam phải thực hiện tổng các biện pháp bao gồm: Đảm bảo an ninh năng lượng và nguồn nước; Kiểm soát chặt thị trường tài chính, bất động sản; Kiên định chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, trong đó đặc biệt chú trọng đến kiểm soát ô nhiễm ở hai đầu tàu Hà Nội và TP HCM, nơi đang đối mặt với thách thức môi trường nghiêm trọng.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Việt Nam hướng tới tăng trưởng 2 con số: Cần động lực mới, mô hình mới
        • Mặc định

        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO