Việt Nam lần đầu tiên sở hữu công nghệ mô phỏng hành trình rác thải nhựa đại dương
(CLO) Lần đầu tiên, các nhà khoa học Việt Nam đã phát triển thành công hệ thống dự báo đường đi của rác thải nhựa trên biển, kết hợp dữ liệu khí tượng và công nghệ mô phỏng dòng chảy. Công nghệ này cho phép dự báo, truy vết nguồn phát thải, góp phần quản lý rác thải nhựa đại dương chính xác và kịp thời.
Hệ thống do nhóm nghiên cứu của Viện Hải dương học - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam xây dựng trong khuôn khổ đề tài “Nghiên cứu, đánh giá quá trình vận chuyển và phát tán rác thải nhựa kích thước macro ở các vùng cửa sông ven biển Nam Trung Bộ”. Kết quả nghiên cứu cung cấp dữ liệu thực địa quan trọng, hỗ trợ hoạch định chính sách và giải pháp giảm thiểu ô nhiễm nhựa tại vùng ven biển Việt Nam.

Nhóm đã tự chế tạo phao trôi gắn GPS, chi phí khoảng 80 USD/bộ, rẻ hơn nhiều so với sản phẩm nhập khẩu nhưng vẫn bảo đảm độ chính xác cao khi theo dõi hành trình rác ngoài thực địa. Dữ liệu thu được, được tích hợp vào bộ mô hình thủy động lực học, cho phép mô phỏng và dự báo sự vận chuyển, tích tụ của rác thải nhựa tại vùng biển Nam Trung Bộ.
Mô hình sau khi được hiệu chỉnh và kiểm nghiệm đã cho thấy độ chính xác cao trong việc tái hiện hướng đi, tốc độ và vị trí tích tụ của rác thải nhựa đại diện, nhất là những mảnh vụn kích thước lớn (MPD) dưới tác động của các điều kiện khí tượng, hải văn khác nhau theo mùa gió (Đông Bắc, Tây Nam).
Kết quả mô phỏng cho thấy các “điểm nóng” tích tụ rác thải ở Nam Trung Bộ như đầm Nha Phu, Bãi Dài, bãi biển Nha Trang, Cam Ranh và Hòn Tre. Đây cũng chính là những vùng ven biển đang chịu áp lực lớn từ các hoạt động du lịch và đô thị hóa.

Công nghệ này đã được đóng gói thành chương trình độc lập, dễ vận hành có tên gọi là VAST-PlasticDrift. Người dùng chỉ cần nhập vị trí và thời gian phát thải để mô phỏng nhanh đường trôi dạt của rác thải, phục vụ công tác thu gom theo mùa, ứng phó sự cố tràn rác, phục vụ hiệu quả việc quy hoạch quản lý vùng ven biển, giáo dục cộng đồng và hoạch định chính sách bảo vệ môi trường biển chủ động.
Theo ThS. Nguyễn Đức Thịnh – Đại diện nhóm nghiên cứu cho biết khảo sát thực địa cho thấy gần 90% số điểm nghiên cứu có rác nhựa kích thước lớn (MPD), trong đó 45% ô nhiễm nặng, 33% ô nhiễm nhẹ và chỉ 9% được đánh giá sạch. Nhóm sẽ tiếp tục mở rộng nghiên cứu sang các loại vật chất khác, làm rõ tác động của tự nhiên và con người tới môi trường biển, tạo cơ sở khoa học cho chiến lược phát triển bền vững hệ sinh thái biển Việt Nam.