Viettel: Khó khăn về cơ chế, có nhiều tiền nhưng lực bất tòng tâm
(CLO) Quyền Chủ tịch, kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn Viettel Lê Dăng Dũng cho biết: Mỗi năm, doanh nghiệp này có 4.000 tỷ để nghiên cứu khoa học, nhưng vì cơ chế rất khó nên chỉ tiêu được khoảng 700 tỷ.
Khó khăn về cơ chế, có nhiều tiền nhưng lực bất tòng tâm
Tại Diễn đàn Quốc gia phát triển doanh nghiệp công nghệ số phiên chiều nay (11/12), ông Lê Đăng Dũng, quyền Chủ tịch, kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn Viettel đã kiến nghị Chính phủ điều chỉnh quy định về việc sử dụng Quỹ phát triển khoa học công nghệ theo hướng tăng tính chủ động cho doanh nghiệp.

Ông Lê Đăng Dũng, quyền Chủ tịch, kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn Viettel.
"Mỗi năm, Viettel có khoảng 4.000 tỷ để nghiên cứu khoa học, nhưng vì cơ chế rất khó nên chỉ tiêu được khoảng 700 tỷ", ông Dũng nói và khẳng định nếu tiêu được thêm, chắc chắn kết quả nghiên cứu khoa học sẽ được nhiều hơn.
Theo ông Dũng, Viettel xác định hạ tầng viễn thông, nền tảng công nghệ số đóng vai trò "cực kỳ quan trọng trong việc chuyển đổi số quốc gia, xây dựng hạ tầng kinh tế, xã hội số". Tập đoàn quyết tâm tự chủ nghiên cứu, sản xuất ra các thiết bị, hệ sinh thái hạ tầng mạng viễn thông và hạ tầng số thực hiện chiến lược "Make in Vietnam".
"Nếu tiếp tục đi mua của nước ngoài, chúng ta sẽ không làm chủ được công nghệ, đảm bảo an toàn an ninh mạng lưới, bảo mật thông tin", lãnh đạo Viettel nói.
Hiện tại, Viettel đã làm chủ ba lớp công nghệ 4G gồm lõi, truyền dẫn và truy nhập. Với 5G, tập đoàn đã phát triển thành công thiết bị thu phát và làm chủ thiết kế hai dòng chipset của công nghệ 5G.
Viettel đã có 51 bằng bảo hộ sáng chế tại Việt Nam và 9 bằng tại quốc tế cùng hàng trăm bằng đang nộp khác. Trong tương lai, Viettel hướng tới phát triển công nghệ bán dẫn để sản xuất chipset 5G tại Việt Nam và tham gia nghiên cứu 6G, cũng như bắt đầu đặt nền móng cho công nghệ vũ trụ với hệ thống vệ tinh viễn thám.
Ngoài kiến nghị về cơ chế chi tiền cho nghiên cứu, Quyền Chủ tịch Viettel cũng xin các chính sách đặc thù cho các sản phẩm công nghệ "Make in Vietnam" tại thị trường nội địa. Ông cho biết, hiện nay, Viettel rất muốn bán các sản phẩm tại thị trường nội địa, nhưng còn vướng các cơ chế khiến doanh nghiệp Việt Nam chưa thể mua được sản phẩm công nghệ cao của Viettel.
Cuối cùng, tập đoàn này kiến nghị Chính phủ xác định đối tác chiến lược về khoa học công nghệ cấp quốc gia, định hướng hợp tác về khoa học công nghệ cho các doanh nghiệp và cho đất nước.
Việt Nam không thể mãi phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài
Bên cạnh kiến nghị tháo gỡ về mặt cơ chế, ông Lê Đăng Dũng nhận định hạ tầng viễn thông công nghệ số đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi số quốc gia. Tuy nhiên, nếu Việt Nam tiếp diễn tình trạng đi mua của nước ngoài sẽ không làm chủ được công nghệ và không đảm bảo an toàn bảo mật thông tin.
Do đó, Viettel thực hiện chiến lược "Make in Vietnam", tự nghiên cứu sản xuất thiết bị hạ tầng viễn thông và hạ tầng số. Đơn vị cho biết tự tin trong nhiệm vụ này bởi có kiến thức công nghệ cao, nguồn tài chính tốt để tự nghiên cứu khoa học; quan hệ hợp tác quốc tế sâu rộng, sẵn sàng chuyển giao công nghệ; thị trường Việt Nam cùng 10 quốc gia khác sẵn sàng sử dụng dịch vụ do Viettel sản xuất.
Cách làm của Viettel khi nghiên cứu sản xuất thiết bị hạ tầng số là làm chủ hệ thống, công nghệ lõi. Không dừng lại ở mức chỉ gia công, sản xuất theo nước ngoài, đơn vị chia hệ thống thành nhiều thành phần và làm chủ từng công đoạn, trước hết là phần mềm, phần cứng và cuối cùng là sản xuất chipset.
Chipet là công nghệ lõi của tất cả các sản phẩm viễn thông, CNTT. Do đó, chỉ khi làm chủ công nghệ này, Việt Nam mới thoát khỏi cái bẫy thu nhập trung bình.
Hiện, tất cả sản phẩm của Viettel đều theo hướng mở, tạo ra hệ sinh thái giúp cộng đồng phát triển, ứng dụng nền tảng. Đồng thời, doanh nghiệp chủ động đăng ký bằng sáng chế bảo vệ tài sản trí tuệ với các hiệp hội trên thế giới.
Kết quả, Viettel đã làm chủ ba lớp 4G, gồm lõi, truyền dẫn và truy nhập. Với 5G, VT đã phát triển thành công thiết bị thu phát và làm chủ thiết kế hai dòng chipset của công nghệ 5G. VT đã có 51 bằng bảo hộ sáng chế tại Việt Nam và 9 bằng tại quốc tế cùng hàng trăm bằng đang nộp khác.
Tương lai, Viettel hướng tới phát triển công nghệ bán dẫn để sản xuất chipset 5G tại Việt Nam và tham gia nghiên cứu 6G, đặt nền móng cho công nghệ vũ trụ - bắt đầu là công nghệ viễn thám.