Đời sống văn hóa

Gian nan chuyện phục dựng, bảo tồn di sản văn hóa

Thế Vũ 21/06/2025 08:30

(NB&CL) Trong một thế giới ngày càng phát triển, việc phục dựng, bảo tồn di sản văn hóa là vô cùng quan trọng bởi qua đó sẽ gìn giữ, trao truyền kiến thức, bản sắc, đồng thời tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và góp phần làm nên sức mạnh mềm quốc gia.

Phục dựng, bảo tồn di sản văn hóa: Nhiều thời cơ, lắm thách thức!

Trong dòng chảy không ngừng của lịch sử, di sản văn hóa tựa như những viên ngọc quý, lưu giữ ký ức, bản sắc và tinh hoa của mỗi cộng đồng, mỗi quốc gia. Tuy nhiên, hành trình gìn giữ và trao truyền những giá trị vô giá này đang đối mặt với không ít khó khăn. Từ sự tàn phá của thời gian, tác động của môi trường, đến bài toán kinh tế và nhận thức, công tác phục dựng và bảo tồn di sản văn hóa đang đứng trước những thách thức không nhỏ. Đó cũng chính là những vấn đề Báo Nhà báo và Công luận đặt ra trong loạt bài viết dưới đây.

Di sản chịu tác động tiêu cực vì… được ghi danh

Với bề dày lịch sử hàng ngàn năm, Việt Nam là một trong những dân tộc có nền văn hóa phong phú và đa dạng bậc nhất thế giới. Tính đến hết năm 2024, chúng ta có hơn 40.000 di tích và khoảng 70.000 di sản văn hóa phi vật thể được kiểm kê, trong đó có 34 di sản được UNESCO ghi danh; 138 di tích quốc gia đặc biệt được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng, 3.653 di tích quốc gia, 620 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; có 294 hiện vật, nhóm hiện vật được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia… Các di sản văn hóa tạo thành mạng lưới rộng khắp, mang dấu ấn của nền văn minh nông nghiệp lúa nước và đời sống sinh hoạt phong phú ngàn đời của người Việt.

Tuy nhiên, do những thay đổi của đời sống xã hội, sự phai nhạt của những giá trị truyền thống, sự tác động của thiên nhiên, của chiến tranh và các yếu tố kinh tế, nhiều di sản văn hóa hiện đã bị mất mát, mai một. Trong một thế giới ngày càng phát triển, di sản văn hóa trở thành một trong những tài nguyên quý giá nhất của mỗi quốc gia. Do đó, việc phục dựng, bảo tồn di sản văn hóa là vô cùng quan trọng, bởi qua đó sẽ gìn giữ, trao truyền kiến thức, bản sắc, đồng thời tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và góp phần làm nên sức mạnh mềm quốc gia.

1.jpg
Lễ rước trong lễ hội làng Di Trạch, ảnh do người Pháp chụp những năm 1920-1929, hiện lưu trữ tại Viện Viễn Đông Bác Cổ Paris.

Thực tế cho thấy, câu chuyện phục dựng, bảo vệ di sản, để di sản sống lại, trở thành nguồn tư liệu, tài nguyên… phục vụ cuộc sống của con người luôn được xã hội hết sức quan tâm. Mỗi khi ở đâu đó có chuyện “làm mới di tích” là dư luận lại có thêm một lần dậy sóng…

Năm 2024, sau trùng tu, di tích Chùa Cầu - một biểu tượng hơn 400 năm tuổi của Hội An - gây tranh cãi vì diện mạo “quá mới, quá trẻ”. Trước đó, dinh thự Hoàng A Tưởng ở tỉnh Lào Cai sau tu bổ cũng là chủ đề khiến dư luận quan tâm khi tường cầu thang lên sảnh chính được cho là màu sơn không tương thích với tổng thể tòa nhà, làm mất vẻ cổ kính của di tích.

Xa hơn nữa, chùa Khúc Thủy ở Hà Nội, dù đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia - theo Luật Di sản, mọi sự trùng tu xây mới đều phải có ý kiến của cơ quan chức năng - song việc xây dựng vẫn diễn ra ồ ạt mà thiếu đi sự kiểm soát. Đến khi công trình hoàn thành, dư luận mới “ngã ngửa” vì chùa đã mang bộ mặt hoàn toàn khác. Dù quy mô khang trang, hoành tráng gấp nhiều lần nhưng ngôi chùa còn đâu vẻ rêu phong cổ kính khi xưa. Đứng giữa sân chùa, người ta có cảm giác như đang lạc vào một tổ hợp kiến trúc nào đó ở Trung Quốc hay Thái Lan, chứ tuyệt đối không phải công trình tín ngưỡng tôn giáo của Việt Nam…

2(1).jpg
Lễ rước Đức Thánh Lý Nam Đế trong lễ hội làng Di Trạch (Hoài Đức, Hà Nội) năm 2025, về cơ bản vẫn giữ được các nghi lễ giống như cách đây 1 thế kỷ.

Những câu chuyện “biến di tích trăm tuổi thành 1 ngày tuổi” như vậy không phải là điều cá biệt mà ngược lại, chúng ta có thể bắt gặp ở rất nhiều nơi. Còn trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể, mấy năm trước, câu chuyện UNESCO chỉ ghi danh, không vinh danh hay công nhận di sản cũng khiến không ít người bất ngờ về cách diễn giải khái niệm này.

Di sản là của cộng đồng nhưng khi được ghi danh, chính quyền nhiều địa phương mặc nhiên coi như di sản đó là của mình. Điều đó dẫn đến hệ lụy là di sản được ghi danh để bảo vệ lại “vô tình” chịu tác động tiêu cực. Những giá trị của di sản trở nên méo mó, biến dạng, mà trong đó, việc “hoành tráng hóa” di sản với hàng nghìn người tham gia để mong đạt kỷ lục thế giới chỉ là một biểu hiện.

Cũng trong thời gian qua, nhiều di sản văn hóa phi vật thể, nhất là các lễ hội truyền thống, đã được phục dựng, tái hiện rất quy mô. Tuy nhiên, không phải ở đâu và khi nào việc phục dựng, tái hiện các lễ hội truyền thống cũng mang tính tích cực. Ngược lại, do thiếu hiểu biết về văn hóa, do thương mại hóa hoạt động lễ hội nên việc phục dựng, tái hiện các lễ hội truyền thống đã có những bất cập, tạo nên những hệ lụy không mong đợi, gây phản ứng xấu trong dư luận và cộng đồng.

Tại một số địa phương, lễ hội phục dựng nhưng lại hướng tới yếu tố lợi nhuận, thế nên, nhiều giá trị của lễ hội được cải biên, làm mới, xa lạ với truyền thống. Đã có nhiều hoạt động trong lễ hội bị “biến tấu” làm sai lệch ý nghĩa như việc phát ấn đền Trần, chuyện ban lộc của Bà Chúa Kho, chuyện xoa tiền trên chuông chùa Đồng ở Yên Tử...

Nhận diện thách thức

Những thách thức trong phục dựng, bảo tồn di sản văn hóa đã được các nhà nghiên cứu văn hóa chỉ ra, đó là sự xuống cấp của các công trình di sản văn hóa vật thể; nhiều di sản văn hóa phi vật thể bị mai một, lãng quên, công tác quản lý di sản còn bất cập…

Ở nước ta, công tác phục dựng di sản văn hóa luôn là một thách thức lớn khi những công trình vốn được xây dựng cách đây hàng trăm năm, những tài liệu cũ phần nhiều đã bị hư hỏng, thất lạc, mất mát. Khi không còn nhiều tài liệu để so sánh, đối chiếu, việc chắp ghép những cứ liệu rời rạc nhằm dựng được một vật mẫu sát với nguyên gốc là vô cùng khó, điều này khiến việc trùng tu di sản nhiều khi phải chấp nhận hình thức phỏng dựng.

3.jpg
Trình diễn múa nghê tại đình Kim Ngân, Hà Nội. Mặt nạ nghê do TS. Trần Hậu Yên Thế phỏng dựng dựa trên tạo hình của nghê/sư tử đội tòa sen ở chùa Bà Tấm, Bắc Ninh.

Khó khăn về kinh phí cũng là một thách thức lớn trong công tác phục dựng di sản văn hóa. Trong khi ngân sách dành cho việc bảo tồn di sản văn hóa thường bị hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thì những di tích, công trình kiến trúc cổ luôn đòi hỏi chi phí tu bổ, phục hồi rất cao, có thể lên đến hàng chục tỷ đồng. Ngoài ra, các vật liệu thay thế cho các công trình cổ ngày càng khan hiếm và đắt đỏ, cùng với việc phục dựng di sản cần đội ngũ thợ lành nghề, chi phí nghiên cứu và lập kế hoạch đòi hỏi rất công phu, bài bản cũng luôn là những rào cản lớn.

Đối với di sản văn hóa phi vật thể, một số phong tục, lễ hội vẫn đang bị mai một; nhiều di sản bị đứt gãy, thất truyền khiến cho việc phục dựng thiếu đi những cơ sở cần thiết. Bên cạnh đó, xu hướng đồng dạng hóa lễ hội đang trở nên phổ biến, làm cho lễ hội dân gian phần nào trở nên nhạt nhòa, mất bản sắc. Cũng không phải là chuyện hiếm khi ở nhiều địa phương hiện nay đã phục dựng một số lễ hội truyền thống nhưng do được “cầm trịch” bởi những người bên ngoài cộng đồng, không am hiểu về di sản nên dư luận không khỏi băn khoăn về tính nguyên bản của lễ hội, làm dấy lên những lo ngại khi lễ hội được phục hồi nhưng lại mất đi cái gốc gác nguyên sơ của nó.

Một thách thức khác được các chuyên gia nghiên cứu văn hóa chỉ ra, đó là công tác quản lý di sản còn bất cập. Sự chồng chéo, không rõ chức năng, nhiệm vụ của các bên liên quan trong quản lý di sản dẫn đến tình trạng “cha chung không ai khóc”; việc tu bổ, tôn tạo chưa được quản lý sát sao; có nơi còn biến di sản thành phương tiện để trục lợi… Và cũng đang quan ngại khi ở một mặt khác, việc tổ chức lễ hội thường do ban quản lý di tích hoặc chính quyền địa phương “bao sân”, vai trò của cộng đồng trong tổ chức, quản lý và vận hành lễ hội bị lấn át, thụ động.

Cơ hội dần rõ nét

Dù có nhiều khó khăn, thách thức, tuy nhiên, công tác phục dựng và bảo tồn di sản văn hóa đang đứng trước những cơ hội lớn, trong đó quan trọng nhất là các cơ chế, chính sách đang dần được hoàn thiện. Cuối năm 2024, Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) được Quốc hội thông qua đã thể chế hóa đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về văn hóa và di sản văn hóa. Với 10 điểm mới, Luật đã củng cố, khắc phục những bất cập và bổ sung những quy định mà thực tiễn phát sinh nhưng chưa có quy định điều chỉnh.

Đồng thời, Luật cũng phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, tạo nên bước chuyển cơ bản cho sự nghiệp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Cũng trong cuối năm 2024, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hoá giai đoạn 2025 - 2035. Theo đó đến năm 2030 sẽ hoàn thành việc tu bổ, tôn tạo 95% di tích quốc gia đặc biệt (khoảng 120 di tích) và 70% số di tích quốc gia (khoảng 2.500 di tích).

Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt “Chương trình số hóa di sản văn hóa Việt Nam, giai đoạn 2021-2030” với mục tiêu số hóa 100% các di sản vật thể, phi vật thể, di sản tư liệu được UNESCO ghi danh, 100% các bảo vật quốc gia, di sản trong Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; 100% các di tích quốc gia đặc biệt được số hóa và ứng dụng trên các nền tảng số…

4.jpg
Một công trình xây dựng hoành tráng tại chùa Khúc Thủy nhưng hoàn toàn xa lạ với kiến trúc truyền thống.

Đặc biệt, sự phát triển của công nghệ như 3D, AI, Metaverse đã và đang làm thay đổi sâu sắc các quan hệ xã hội cũng như công tác bảo tồn các di sản văn hóa. Hiện nay, công nghệ nano và vật liệu mới cho phép bảo quản các di tích, cổ vật hiệu quả hơn; nguồn dữ liệu lớn giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn về lịch sử, cấu trúc và quá trình biến đổi của di sản; công nghệ VR và AR cho phép con người tương tác với di sản một cách sống động và đa chiều hơn.

Việc ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực di sản giờ đây đã không dừng lại ở việc đơn giản là đưa dữ liệu lên internet mà nhiều đơn vị đã áp dụng công nghệ quét 3D tạo bản sao chính xác, có thể mô phỏng kiến trúc, cảnh quan, lễ hội để phục vụ nghiên cứu, bảo tồn và phục dựng di sản.

Tiêu biểu như các nhà khoa học của Viện Nghiên cứu Kinh thành đã phục dựng thành công hình ảnh 3D kiến trúc thời Lý của Khu di tích Hoàng thành Thăng Long. Từ đây bức tranh toàn cảnh về cung điện, lầu gác thời nhà Lý được tái hiện trên nền các vết tích khảo cổ học dưới lòng đất. Gần đây, các nhà khoa học của Viện tiếp tục giải mã và phục dựng hình ảnh 3D hình thái kiến trúc điện Kính Thiên - tòa Chính điện trong Cấm thành Thăng Long.

Cũng có thể kể đến Viện Bảo tồn Di tích đã xây dựng một kho tư liệu số khổng lồ với hơn 3.000 hồ sơ di tích. Những bản vẽ, hình ảnh, phim tư liệu này không đơn thuần chỉ là việc chụp lại di tích mà đã tiến xa hơn, đó là cung cấp cái nhìn chi tiết từ lịch sử, vị trí, hình ảnh cho đến các quy trình tu bổ.

Đây sẽ là phương tiện bảo vệ, khôi phục di sản hiệu quả bởi khi di sản được số hóa chi tiết, chúng ta sẽ có cơ hội phục dựng chính xác thay vì đối diện với nguy cơ mất mát vĩnh viễn. Với nhiều di sản, khi chưa có đủ điều kiện để phục dựng ngay, thì số hóa chính là cách gìn giữ giá trị di sản hiệu quả nhất hiện nay.

Cần một tầm nhìn chiến lược và sự kết nối

Tuy nhiên, công nghệ dù có cao siêu đến mấy cũng chỉ là công cụ. Việc làm sống lại những di sản hàng trăm, thậm chí cả ngàn năm tuổi, với yêu cầu làm sao gìn giữ được giá trị của hồn cốt di sản luôn là vấn đề không đơn giản. Vì vậy, trong quá trình phục dựng, bảo tồn di sản, yếu tố cốt lõi nhất vẫn là con người.

Mặt khác, trong bối cảnh di sản văn hóa đang ngày càng khẳng định vai trò như một phần không thể thiếu trong bản sắc dân tộc và động lực phát triển bền vững, công cuộc phục dựng không chỉ đơn thuần là việc khôi phục những giá trị đã phai mờ mà còn cần phát huy được giá trị những di sản đó. Điều này đòi hỏi một tầm nhìn chiến lược, sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành, sự tham gia tích cực của cộng đồng và đặc biệt là sự tôn trọng tuyệt đối tính xác thực lịch sử và văn hóa.

Những nỗ lực phục dựng thành công các di tích lịch sử như Hoàng thành Thăng Long, nhã nhạc cung đình Huế hay phố cổ Hội An đã minh chứng cho ý chí và khả năng của chúng ta trong việc gìn giữ “hồn cốt” của dân tộc. Những di sản này không chỉ trở thành điểm đến hấp dẫn mà còn là những “pho sử sống”, giáo dục cho thế hệ trẻ về cội nguồn và bản sắc văn hóa.

Hành trình phục dựng di sản là một hành trình không ngừng nghỉ, đòi hỏi sự kiên trì, tâm huyết và trách nhiệm của toàn xã hội. Chỉ khi đó, những “chứng nhân” của lịch sử mới thực sự được hồi sinh, tiếp tục kể câu chuyện về cội nguồn và đem đến những giá trị mới cho mỗi chúng ta.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Gian nan chuyện phục dựng, bảo tồn di sản văn hóa
        • Mặc định

        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO