Tin tức

Hội tụ nhân tâm trí thức cùng xây dựng một nước Việt Nam mới

Hà Anh 02/09/2025 14:01

(NB&CL) Đã có nhiều câu hỏi được đặt ra rằng trong bộn bề khó khăn bủa vây của những ngày đầu vừa giành được độc lập cách đây 80 năm, Nhà nước ta, Chính phủ ta đã xoay xở như thế nào để có thể vượt qua những thách thức sống còn, những tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” ngoạn mục và thành công đến thế. Trong rất nhiều những “bí quyết vượt bão tố”, các nhà quan sát đặc biệt nhấn mạnh tới sách lược đoàn kết, thu phục nhân tài không phân biệt đảng phái của Đảng và Bác Hồ.

Kiến quốc cần có nhân tài

Đó là một trong những tuyên bố của Người đứng đầu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngay từ những thời khắc đầu tiên của nền độc lập. Trước 8/1945, trên hành trình cách mạng của mình, Người đã thấu hiểu rất rõ vai trò của việc trọng dụng người tài cho công cuộc cứu nước.

Như nhìn nhận của PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc, Nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, “Nếu nói về chuẩn bị con người thì phải từ 1920 khi Nguyễn Ái Quốc mở những lớp huấn luyện cán bộ ở Quảng Châu (Trung Quốc). Sau này, trong cao trào cách mạng giải phóng dân tộc trực tiếp từ 1939-1945, Bác Hồ đã hết sức quan tâm đến nhân tố con người, đào tạo cán bộ trực tiếp cho cuộc Cách mạng. Sự chuẩn bị cán bộ trước hết nói từ cấp Trung ương. Từ khi Bác Hồ về nước vào đầu năm 1941, Hội nghị Trung ương 8 đã quy tụ những đồng chí lãnh đạo xuất sắc của Đảng ta lúc đó, trải qua thử thách của nhiều cao trào cách mạng trước để hình thành lên đội ngũ lãnh đạo trung kiên của Đảng, của dân tộc. Đến khi trực tiếp nổ ra cuộc Cách mạng Tháng 8, ở cấp Trung ương, chúng ta đã có những nhà lãnh đạo lỗi lạc, cùng với Hồ Chí Minh như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt… và nhiều đồng chí khác ở cấp chiến lược”.

anh1.png
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với các đại biểu trí thức Quốc hội khóa III. Ảnh: MAI NAM

Và đến buổi đầu gìn giữ nền độc lập, kiến thiết đất nước, một lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh tới tầm quan trọng của việc trọng dụng nhân tài. “Nay muốn giữ vững nền độc lập chúng ta phải đem hết lòng hăng hái vào kiến quốc. Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kiến quốc cần có nhân tài”- Người đứng đầu nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa chỉ rõ trong bài viết “Nhân tài và kiến quốc”.

Hơn một năm sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố văn bản Tìm người tài đức đăng trên Báo Cứu quốc ngày 20/11/1946. Người nhắc lại: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa điều đó và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết. Báo cáo phải nói rõ tên tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở của người đó. Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương phải báo cáo cho đủ”.

Trọng thị, không định kiến

anh4(1).jpg
Thông cáo “Tìm người tài đức” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên trang nhất của Báo Cứu Quốc số ra ngày 20/11/1946. Ảnh: T.L

“Chí thành, năng động, tấm lòng thành của Cụ Hồ làm đá cũng phải chuyển, huống là tôi”- chia sẻ đầy cảm kích mà cụ Huỳnh Thúc Kháng dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh có lẽ cũng là cảm nhận chung của hết thảy những tri thức yêu nước Việt Nam về cách trọng dụng nhân tài một cách đầy trọng thị, không định kiến của người đứng đầu nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa cách đây 80 năm.

Nếu không phải từ sự hết mực trọng thị ấy, không phải bởi “chí thành, năng động, tấm lòng thành”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không thể mời được cụ Huỳnh Thúc Kháng tham gia Chính phủ lâm thời.

Chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng, như chính cảm nhận của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cụ Huỳnh là người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao. Cụ Huỳnh là người giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khó không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không cần danh vị, không cần lợi lộc, không thèm làm giàu...”. Vì thế, thuyết phục được cụ ra Hà Nội để “trình bày một số ý kiến về đất nước” đã là khó, để cụ nhận lời nhận chức Bộ trưởng còn khó hơn. Nhưng với cụ Hồ, với người tài đức hiếm có như cụ Huỳnh, việc mời cụ vào Chính phủ, khó mấy cũng phải làm cho được.

Cuối năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh điện lần thứ nhất, mời cụ ra Hà Nội nhận chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ nhưng cụ Huỳnh đã điện trả lời Bác Hồ rằng “tôi chưa đi được và không thể nhận chức Bộ trưởng”. Ít ngày sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi bức điện thứ hai gửi cụ Huỳnh: “Chúng tôi khẩn khoản mời cụ ra Hà Nội nhận chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ!” và chỉ đạo Ủy ban Hành chính Trung bộ cho xe qua tòa báo Tiếng Dân đưa cụ Huỳnh ra Thủ đô.

Như lời kể của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Khi nhận bức thư mời thứ nhất, cụ Huỳnh chưa trả lời, đến bức thư thứ hai thì cụ đồng ý ra Bắc nhưng không mang theo hành lý mà dự định ra gặp Bác Hồ rồi cụ sẽ trở vô bởi cho rằng “lúc này là lúc cần tăng gia sản xuất mà tôi không biết cầm cày, cầm cuốc; lại cần phải kháng chiến mà tôi lại không mang súng nổi. Cụ nên kiến nghị người trẻ thạo việc để trao nhiệm vụ thì hơn”.

Song Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên trì thuyết phục. Khi gặp nhau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói chuyện với cụ Huỳnh suốt một giờ đồng hồ. Có lẽ, sự trân trọng, khâm phục cùng tấm chân thành của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trên con đường tranh đấu giành độc lập, Cụ đã đi được 99 dặm, chỉ còn dặm nữa. Xin Cụ đừng thoái thác, Cụ vui lòng giúp tôi”, đã thuyết phục được cụ ra gánh vác việc nước. Cuối cùng, cụ Huỳnh đã thốt lên “Nay gặp cụ tôi hả lắm” và đồng ý nhận chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ, để rồi trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam mới, Bác Hồ đã trân trọng giới thiệu danh sách Chính phủ Liên hiệp để Quốc hội thông qua, trong đó Người nhấn mạnh: “Giữ chức Bộ Nội vụ: Một người đạo đức danh vọng mà toàn thể quốc dân ai cũng biết đó là cụ Huỳnh Thúc Kháng”.

Sau đó, cụ Huỳnh còn nhận thêm chức danh Hội trưởng Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Liên Việt). Ngày 7/3/1946 lần đầu tiên cụ Huỳnh Thúc Kháng ra mắt quốc dân trước tiếng hoan hô vang dậy của hàng vạn đồng bào ở quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội. Thậm chí, sau này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng kể lại là sau khi gặp Bác Hồ, cụ Huỳnh có nói một câu rằng: “Đã gặp tri kỷ, tiếc rằng khi gặp tri kỷ thì tuổi đã già”.

Tháng 5/1946, trong thời gian vận mệnh đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh phải lên đường sang Pháp, cụ Huỳnh đã phải gánh vác trọng trách thay Hồ Chủ tịch điều hành việc nước và đã không phụ lòng sự kỳ vọng, mong đợi của Hồ Chủ tịch, cụ đã điều hành quốc sự theo đúng phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, giải quyết êm thấm nhiều công việc liên quan đến quốc gia đại sự, giữ yên được thế phát triển của cách mạng trong thời điểm hiểm nghèo.

Chuyện Chủ tịch Hồ Chí Minh mời cụ Bùi Bằng Đoàn tham gia việc nước ngay sau ngày độc lập cũng là một sự trọng thị và kì công không kém. Thời bấy giờ, trong nhìn nhận của người đương thời, cụ Bùi Bằng Đoàn được xem là người học rộng, hiểu sâu, là ông quan đức độ, thanh liêm, chính trực, thương dân.

Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Vua Bảo Đại xuống chiếu thành lập Chính phủ, cụ đã từ chối tham gia Chính phủ. Ngày 2/9/1945, cụ được mời tham gia dự lễ Tuyên ngôn Độc lập tại Ba Đình. Tại buổi lễ đó, trong buổi gặp trò chuyện với cụ, Hồ Chủ tịch có nhã ý mời cụ tham gia chính quyền cách mạng, tuy nhiên, cụ cho biết đã quyết định “treo ấn, từ quan”, về an trí ở quê nhà Liên Bạt, Hà Tây.

Nhưng người đứng đầu đất nước vẫn không nản chí. Hồ Chủ tịch đã tự tay đánh máy hai bức thư trân trọng mời Cụ tham gia việc nước. Trong lá thư ngày 7/11/1945, Hồ Chủ tịch đã viết: “Tôi mời ngài làm cố vấn cho tôi để giúp thêm ý kiến trong công việc hưng lợi, trừ họa cho nước nhà, dân tộc”. Nhưng cả hai lần nhận thư của Bác Hồ, cụ Bùi đều lưỡng lự, xin cáo từ.

Đến lần thứ ba, Hồ Chủ tịch cử thu ký riêng là ông Vũ Đình Huỳnh về tận quê cụ ở Hà Đông để trao tận tay bức thư riêng của Người. Trong thư có câu thơ cổ 7 chữ: “Thu thủy tàn hà thính vũ thanh” (Dòng nước thu, bông sen tàn nghe tiếng mưa rơi lại nở). Chuyện rằng, sau khi đọc thư này, cụ Bùi đã vui vẻ nhận lời mời của Bác Hồ.

Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64, thành lập Ban thanh tra đặc biệt và cử Bùi Bằng Đoàn làm Trưởng ban (nay là Tổng Thanh tra Chính phủ). Dưới sự chỉ đạo của Trưởng Ban thanh tra đặc biệt Bùi Bằng Đoàn, nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến giữ gìn bộ máy chính quyền trong sạch và uy tín cho Đảng đã được giải quyết thỏa đáng.

Ngày 8/1/1946, cụ được cử làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội thay cho cụ Nguyễn Văn Tố. Các phiên họp của Chính phủ đều có sự tham dự, góp ý của Trưởng ban Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn. Nhiều vấn đề đối nội, đối ngoại quan trọng của đất nước, Chính phủ đều lắng nghe ý kiến của cụ.

anh5.jpg
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Trưởng Ban Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn (ngoài cùng bên phải) năm 1948 ở ATK Định Hóa, Thái Nguyên. Ảnh tư liệu

Cũng từ sự trọng thị, không định kiến này, trong cơ cấu nhân sự của 5 lần cải tổ Chính phủ sau ngày đất nước độc lập, từ Chính phủ lâm thời tháng 8/1945 đến Chính phủ kháng chiến tháng 11/1946, đều nhất quán theo nguyên tắc đoàn kết tập hợp nhân tài không phân biệt đảng phái. Đơn cử như cụ Huỳnh Thúc Kháng (không đảng phái) vẫn giữ Bộ trưởng Nội vụ; Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp (thuộc Việt Minh); Phạm Văn Đồng (Việt Minh) chỉ giữ chức Thứ trưởng, còn Bộ trưởng kinh tế dành cho một vị ở Nam Bộ; Bộ trưởng Tư pháp Vũ Đình Hoè (thuộc đảng Dân chủ), Bộ trưởng cứu tế Chu Bá Phượng (thuộc Việt quốc)...

Trọng vì nghĩa, phục vì tài

Đó là cảm nhận chung của đội ngũ đông đảo trí thức lớn khi những năm đầu nước nhà độc lập, được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời về nước phục vụ nước nhà. Đơn cử như sự trở về sau 11 năm của nhà bác học Trần Đại Nghĩa (Phạm Quang Lễ)

Chuyện kể rằng năm 1946, chàng du học sinh người Pháp Phạm Quang Lễ có cơ hội gặp Hồ Chủ tịch khi Người tới thăm Pháp, Tại buổi gặp hôm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hỏi chàng kỹ sư: “Nguyện vọng của chú lúc này là gì?”, Lễ trả lời rất nhanh: “Kính thưa Cụ, nguyện vọng cao nhất của tôi là được trở về Tổ quốc cống hiến hết năng lực và tinh thần”. Rồi Người hỏi: “Ở nhà cực khổ lắm, chú về có chịu được không?”- Phạm Quang Lễ thưa: “Dạ chịu nổi”. Rồi Người lại hỏi thêm: “Bây giờ ở nhà kỹ sư, công nhân về vũ khí không có, máy móc thiếu, liệu chú có làm được việc không?” - Ông nói: “Thưa Bác, tôi đã chuẩn bị mười một năm rồi và tôi tin là làm được.”

anh2(2).jpg
Kỹ sư Phạm Quang Lễ - sau này Bác Hồ đặt tên Trần Đại Nghĩa (người đeo kính, đứng hàng sau cùng) cùng các trí thức Việt kiều Pháp theo Bác Hồ trở về Tổ quốc trên chiến hạm Dumont d’Urville (1946). Ảnh tư liệu

Từ nguyện vọng ấy, niềm tin ấy, chàng kỹ sư đã không do dự từ bỏ chức vụ kỹ sư trưởng ở Hãng nghiên cứu chế tạo máy bay Concord với tiền lương tương đương 22 lạng vàng một tháng lúc ấy để ngày 19/9/1946, cùng Bác Hồ lên chiến hạm Dumont d’Urville từ cảng Toulon, mang theo… 1 tấn tài liệu về nước.

Ngày 5 tháng 12 năm 1946, trước Ngày Toàn quốc kháng chiến, tại Bắc Bộ Phủ, Hồ Chủ tịch gặp Phạm Quang Lễ và nói: “Kháng chiến sắp đến nơi rồi. Hôm nay, Bác quyết định giao cho chú nhiệm vụ làm Cục trưởng Cục Quân giới. Chú sẽ chăm lo vũ khí cho quân đội. Đây là việc đại nghĩa. Vì thế, từ nay Bác đổi tên cho chú là Trần Đại Nghĩa...”. Nhờ công lao của Bác, về sau chúng ta có một “Nhà bác học Việt Minh”, Thiếu tướng, Anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa.

Câu chuyện đến với cách mạng của “chàng quý tộc phương Đông” Hồ Đắc Di- một trong những thầy thuốc Việt Nam ưu tú nhất, những trí thức tiêu biểu nhất của đất nước thế kỷ XX, cũng là một minh chứng cho tài chiêu hiền đãi sĩ của Hồ Chủ tịch.

Theo nhà báo Hàm Châu, nước Pháp năm 1919 diễn ra một cuộc gặp gỡ bất ngờ. “Dạo đó tôi thường lui tới câu lạc bộ sinh viên VN ở số nhà 15 phố Sommerard, khu Latin, Paris. Sáng chủ nhật hôm ấy, tôi cùng đi với anh bạn Dương Văn Giáo, quê ở Nam kỳ, lúc bấy giờ là luật sư tập sự. Câu lạc bộ có hai phòng: phòng ngoài để sách báo cho sinh viên xem, phòng trong đặt bàn ghế tiếp khách. Nhìn vào phòng trong tôi chợt thấy ba người đang trò chuyện: một ông già có chòm râu đen, một người béo lùn và một người trẻ tuổi, nước da hơi xanh, đôi mắt rất sáng, vóc dáng mảnh khảnh gầy gò. Anh Giáo hỏi tôi: - Anh có biết ba người kia là ai không? - Có biết một, người để râu là cụ Phan Châu Trinh. - Người béo lùn kia là - anh Giáo tiếp lời tôi - luật sư Phan Văn Trường; còn người gầy gầy, xanh xanh là ông Nguyễn Ái Quốc” - GS Hồ Đắc Di kể lại.

Cũng theo hồi ức của GS Hồ Đắc Di: “mấy tiếng “Nguyễn Ái Quốc” làm tôi xúc động đến bàng hoàng. Thì ra con người mà tôi hằng nghe bạn bè nhắc đến, con người từng cất cao tiếng nói đanh thép đòi quyền lợi chính đáng cho dân tộc VN - một cử chỉ gan dạ khiến mọi người khâm phục - con người ấy đang ngồi trước mặt tôi kia! Và cũng là người “trần thế” như mọi người bình thường, chứ đâu phải là một “trang hiệp sĩ” theo kiểu “Richard trái tim sư tử” như trí tưởng tượng của tôi hằng thêu dệt theo tiểu thuyết Walter Scott!”.

anh3(1).jpg
GS Hồ Đắc Di (bên phải) tiếp đón Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên tới thăm trường Đại học Y. Ảnh: T.L

Từ sự “xúc động bàng hoàng ấy”, “chàng quý tộc phương Đông” Hồ Đắc Di dù đã được trọn là trợ giáo Trường Đại học Y khoa Paris, vẫn cương quyết trở về đất mẹ, vì ông biết, đồng bào, đất nước, cách mạng đang rất cần những trí thức như ông. Nhờ Hồ Chủ tịch, chúng ta có được GS Hồ Đắc Di, vị giáo sư đại học người Việt Nam đầu tiên và duy nhất trước Cách mạng Tháng Tám, Hiệu trưởng đầu tiên Trường Đại học Y của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chủ nhân của khoảng 37 công trình nghiên cứu y khoa giá trị.

Câu chuyện trở về nước, cống hiến cho đất nước của nhà khoa học Ngụy Như Kon Tum cũng là một minh chứng nữa về sự trọng thị người tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Được cấp học bổng toàn phần sang Pháp học đại học, tại Pháp, cũng với sự thông minh, chuyên cần, cậu sinh viên Ngụy Như Kon Tum đã trở thành Thạc sĩ Vật lý đầu tiên của Việt Nam trên đất Pháp.

Tuy nhiên, bị thôi thúc bởi câu nói “đất nước của anh cần anh hơn là nước Pháp”, nhà khoa học trẻ đã chấp nhận từ bỏ việc xin nhập quốc tịch Pháp, từ bỏ triển vọng có thể được Bộ Quốc phòng Pháp tuyển dụng, để trở về nước vào cuối năm 1939, tham gia giảng dạy tại Trường Trung học Chasseloup (Sài Gòn) rồi Trường Bưởi (Hà Nội).

Năm 1956, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập, Bộ Giáo dục đệ trình lên Chủ tịch nước danh sách đề nghị những người đảm trách chức Hiệu trưởng, nhưng không có tên GS Kon Tum, xem danh sách, đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh ký bổ nhiệm GS Ngụy Như Kon Tum giữ chức Hiệu trưởng nhà trường.

Bác Hồ còn nói cụ thể: GS Ngụy Như Kon Tum chưa là đảng viên nên càng nên giữ chức Hiệu trưởng. Sự quan tâm, trọng thị và không định kiến ấy của người đứng đầu đất nước, vị trí thức người Ba Na thấu hiểu hết và càng nguyện dốc toàn tâm, toàn lực cho đất nước. 26 năm làm Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội cho đến lúc nghỉ hưu (1956-1982), Giáo sư Ngụy Như Kon Tum bên cạnh vai trò của một nhà quản lý có tầm, có tâm, còn là một nhà Vật lý tài ba, người góp phần xây dựng thành công ngành Vật lý địa cầu ở nước ta.

Các nhân sĩ, trí thức tài năng đã hưởng ứng lời mời trân trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp sức trí tuệ vào công cuộc kháng chiến-kiến quốc vì “Điều mấu chốt là Chủ tịch Hồ Chí Minh áp dụng chính sách tín nhiệm đối với trí thức” - như lời luật sư Phan Anh sau này trả lời phỏng vấn của nhà sử học Na Uy Stein Tonnesson về thời kỳ 1945-1946.

Cũng chính từ sự cảm kích ấy, tất cả trong số họ, đều tín phục Bác Hồ, một lòng đi theo cách mạng và đã luôn cố gắng đóng góp phần tích cực nhất của đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Như nhìn nhận của GS, TS Phạm Tất Dong: Với con mắt của một trí thức tầm cỡ lớn của thời đại, Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin vào trí thức và nhân tài. Sự thấu thị và cái Tâm ấy chỉ có ở những trí thức lớn, ở những bộ não thông tuệ có một không hai trong cuộc đời này.

“Dụng nhân như dụng mộc”, “biết dùng người thì không lo thiếu cán bộ tốt”. Tầm nhìn chiến lược, tư duy thu phục, trọng dụng hiền tài “đánh trúng lòng người” của Hồ Chủ tịch đã tập hợp được đông đảo nhân tâm và sĩ khí của dân tộc. Sự tụ hội ấy đã là bệ đỡ vô giá để nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng vững ngay từ những ngày đầu muôn vàn khó khăn của chính quyền cách mạng còn non trẻ và cũng là bài học vô giá về câu chuyện sử dụng nhân lực sau này.

Hà Anh