Tin tức

Biết đồng sức, biết đồng lòng, việc gì khó, làm cũng xong

Hà Anh 02/09/2025 08:00

(NB&CL) “Biết đồng sức, biết đồng lòng, việc gì khó, làm cũng xong” - những câu thơ ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh - là thêm một sự đúc kết, nhấn mạnh của vị lãnh tụ cách mạng Việt Nam về sức mạnh của đại đoàn kết, của sự chung sức, đồng lòng, nhất là trong những hoàn cảnh khó khăn, ngặt nghèo nhất. Điều ấy đã được chứng minh không chỉ trong cuộc cách mạng tháng Tám mà cả trong hành trình tạo dựng và giữ gìn nền độc lập non trẻ của đất nước năm 1945-1946.

“Nhiều người bẩy thì hòn đá to cũng phải bật”

Sinh thời, Thượng tướng Đàm Quang Trung cứ tâm đắc mãi câu nói của Bác Hồ: “Đoàn kết thì nhất định việc gì cũng làm được. Một người không vây bắt được con hổ nhưng có nhiều người hợp sức thì vây bắt được. Một người không bẩy được hòn đá to, nhiều người bẩy thì hòn đá to cũng phải bật”. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết luôn là “sức mạnh vô địch của chúng ta”, “nhờ sức đại đoàn kết mà cách mệnh thành công”.

Vì lẽ đó, tháng 4 năm 1942, trên báo Việt Nam Độc lập, tờ báo đầu tiên Bác Hồ thành lập trong nước với sứ mệnh được giao phó “nói điều hay lẽ phải cho chúng ta theo, dạy cho chúng ta phải đánh Tây, đánh Nhật”, đã xuất hiện những câu thơ của Bác: “Hòn đá to,/ Hòn đá nặng,/Chỉ một người,/Nhắc không đặng,/Hòn đá nặng,/Hòn đá bền/Chỉ ít người/Nhắc không lên/Hòn đá to/Hòn đá nặng,/Nhiều người nhắc,/Nhắc lên đặng./Biết đồng sức,/Biết đồng lòng,/Việc gì khó,/Làm cũng xong./Đánh Nhật, Pháp,/Giành tự do,/Là việc khó,/Là việc to./Nếu chúng ta/Biết đồng lòng/Thì việc đó/Quyết thành công”.

Bài thơ đi theo thể ba chữ rắn rỏi có thể hiểu như nhịp đi của bước chân dứt khoát, trong đó người mượn hình ảnh cụ thể là hòn đá to để nhắc nhớ về vai trò của sự đoàn kết, chung sức, chung lòng. Đáng chú ý nhất là mấy câu thơ cuối, Bác khẳng định đanh thép: “Đánh Nhật, Pháp/Giành tự do/Là việc khó/Là việc to/Nếu chúng ta/Biết đồng lòng/Thì việc đó/Quyết thành công”.

Trong quan điểm của Người, hòn đá dù to và nặng thế nào nhưng nếu nhiều người đoàn kết lại sẽ nhấc được nó một cách dễ dàng. Ngược lại, nếu không đoàn kết, chỉ thực hiện một cách đơn lẻ thì sẽ không bao giờ thực hiện được. Suy rộng ra, Người muốn nói rằng, nếu chúng ta biết đoàn kết thì kẻ thù lớn như hòn đá nặng kia, sớm muộn cũng sẽ bị tiêu diệt.

anh1(1).jpg
Tuyên cáo ngày 28/8/1945 của Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Việt Nam Dân quốc Công báo năm 1945, số 1, trang 01 - 02.

Để ý thời gian bài thơ được đăng tải, tháng 4/1942 càng thấy rõ hơn điều vị lãnh tụ của cách mạng Việt Nam muốn gửi gắm. Năm 1941, 1942 là quãng thời gian Đảng và Bác Hồ đang có những chuẩn bị hết sức khẩn trương cho cách mạng Việt Nam, trong đó, một trong những sự chuẩn bị lớn nhất là “xốc” lại tư tưởng, tinh thần toàn dân đoàn kết một lòng, tuyên truyền, cổ vũ mọi tầng lớp, giai cấp chờ thời cơ đứng lên đánh giặc cứu Tổ quốc.

Tinh thần đoàn kết ấy, tiếp tục được Đảng, Bác Hồ kết nối, nhân rộng để rồi trở thành nguồn sức mạnh vô địch làm nên thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám.

Chung sức để bảo vệ thành quả cách mạng, giữ nền độc lập, kiến thiết quốc gia

Với Đảng và Bác Hồ, đại đoàn kết, tinh thần chung sức chung lòng không chỉ là vũ khí sắc bén bậc nhất trong công cuộc đấu tranh giành chính quyền cách mạng mà còn cần được phát huy tối đa trong công cuộc tạo dựng và gìn giữ những thành quả cách mạng vừa giành được, giữ gìn nền độc lập trong bối cảnh muôn trùng khó khăn bủa vây, thậm chí là “nghìn cân treo sợi tóc”.

Quan điểm ấy, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc để giữ vững nền độc lập, kiến thiết quốc gia được thể hiện rõ nét đầu tiên qua Chính phủ lâm thời của nước nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Ngày 28/8/1945, cùng ngày với việc Đồng Nai Thượng và Hà Tiên - hai địa phương cuối cùng trong cả nước giành được chính quyền, để có thể cấp bách ổn định tình hình, củng cố chính quyền cách mạng, trên hết là để đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước và những nhân sĩ tiến bộ cũng như có cơ sở trong việc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài, trong bộn bề công việc chuẩn bị cho Lễ Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn chủ trương thành lập ngay Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

anh2(1).jpg
Chủ tịch Hồ Chí Minh dự khai mạc lớp huấn luyện cán bộ Bình dân học vụ (khóa học mang tên Hồ Chí Minh) tại Hà Nội, ngày 8/10/1945. Nguồn: Bảo tàng Lịch sử quốc gia

Từ chủ trương đó, ngay trong ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra Tuyên cáo trước quốc dân đồng bào cũng như toàn thế giới về việc thành lập Chính phủ mới và công bố danh sách Nội các thống nhất quốc gia gồm 15 thành viên do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

“Toàn quốc đại biểu hội họp ngày 16, 17 tháng 8 năm 1945 đã cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam tức là Chính phủ Nhân dân lâm thời Việt Nam để lãnh đạo nhân dân tranh đấu giành quyền độc lập”.

“Chính phủ Lâm thời không phải là riêng của mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh) như có người đã lầm tưởng. Cũng không phải là một Chính phủ chỉ bao gồm đại biểu của các chính đảng. Chính phủ ấy là một Chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn quốc, đợi ngày triệu tập được Quốc hội để cử ra một Chính phủ Dân chủ Cộng hoà chính thức” - Tuyên cáo của Chính phủ Lâm thời ngày 28/8 nói rất rõ về tính đoàn kết của Chính phủ mới.

Tuyên cáo cũng kêu gọi toàn thể quốc dân đoàn kết một lòng với khẩu hiệu: “Toàn dân đoàn kết, Tranh thủ hoàn toàn độc lập”, làm hậu thuẫn cho Chính phủ Lâm thời để giữ vững tự do độc lập và cải tạo, kiến thiết đất nước sau bao năm bị giặc tàn phá.

So với Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, thành phần của Chính phủ lâm thời gồm nhiều đại diện của các đảng phái, đoàn thể, mang tính dân chủ hơn, mở rộng thành phần tham gia, đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có cả các đại diện của Đảng dân chủ, của Mặt trận Việt Minh, những nhân sĩ yêu nước. Minh chứng là trong số 15 thành viên, có tới 9 Bộ trưởng là nhân sĩ, trí thức ngoài đảng như: Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Mạnh Hà, Phạm Ngọc Thạch, Cù Huy Cận, Nguyễn Văn Xuân, Vũ Đình Hòe.

Thực tế, từ sự kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều người trong số họ đã dốc lòng cống hiến, chung sức vì sự nghiệp kiến quốc những ngày đầu độc lập.

Đơn cử như sự góp công của cụ Nguyễn Văn Tố. Là Hội trưởng Hội truyền bá học chữ Quốc ngữ Bắc Kỳ, một trí thức luôn được giới khoa học, cả người Pháp lẫn người Việt kính nể bởi học vấn uyên sâu, cụ được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời làm Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội của Chính phủ lâm thời trong bối cảnh cấp thiết chống đói, chống dốt cho nhân dân.

Không phụ lòng tin tưởng của Hồ Chủ tịch, cụ đã không ngừng trăn trở tìm cho ra những giải pháp đủ mạnh để chống lại “giặc đói”, “giặc dốt”. Một trong những giải pháp ấy là việc ngày 2/11/1945, cụ Nguyễn Văn Tố đã quyết định thành lập Hội Cứu đói.

Ban đầu, Hội được thành lập ở một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, sau đó nhanh chóng lan rộng khắp cả nước. Phương pháp hoạt động chủ yếu là tìm nguồn thực phẩm, tiền và vải do các nhà hảo tâm giúp đỡ; phát triển sản xuất, khuyến khích công việc đồng áng và trông nom đê điều; giúp đỡ nhân dân trong việc khai khẩn đất hoang hóa để đưa vào sản xuất.

Cùng với đó, trong việc diệt “giặc dốt”, Bộ Cứu tế xã hội cũng như Bộ trưởng Nguyễn Văn Tố cũng có những đóng góp không nhỏ khi tổ chức thành công nhiều lớp huấn luyện đào tạo đội ngũ cán bộ bình dân học vụ.

anh3.jpg
Một số thành viên Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau Phiên họp ngày 3/9/1945. Chính phủ lâm thời đã tập hợp và huy động được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Sự vững chắc của Chính phủ lâm thời là điều kiện bảo đảm, là công cụ thúc đẩy cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Ảnh: Tư liệu

Từ sự chung sức quý giá ấy, rất nhiều đầu việc cấp bách những ngày đầu đất nước vừa giành được độc lập đã được giải quyết. Trong đó, đáng kể đầu tiên là việc giải quyết được nạn đói.

Ngày đó, hàng loạt phong trào quyên góp như “Ngày đồng tâm”, “Hũ gạo cứu đói”, “Hũ gạo tình thương”, “Hũ gạo kháng chiến”, “Lá lành đùm lá rách”... đã nhanh chóng lan toả trở thành các phong trào lớn rộng khắp các địa phương trong cả nước.

Nói tới “cuộc lạc quyên” của Chính phủ những ngày đầu cách mạng không thể không nhớ lại hình ảnh rất cảm động - cụ Ngô Tử Hạ- người đứng đầu Hội cứu tế, cứu đói của Chính phủ - mặc áo the, khăn xếp, kéo xe bò đi đầu đoàn người trong lễ phát động phong trào cứu đói của Chính phủ hồi giữa tháng 9/1945. Chiếc xe cụ kéo đi qua các phố của Hà Nội kêu gọi quyên góp tiền bạc cứu đói.

Chuyện kể rằng, khi xe vòng về đến Nhà hát lớn, gặp Bác Hồ, cụ Ngô Tử Hạ chỉ cho Bác Hồ xem chiếc xe chở lẫn lộn đủ các loại gạo, Bác Hồ nói: “Đấy mới là gạo đại đoàn kết. Nước ta có nhiều thứ gạo ngon, nhưng bây giờ thì đây là thứ gạo ngon nhất”.

Chống đói không chỉ là nhịn ăn, là lạc quyên chia sẻ mà cần hơn cả là phải tăng gia sản xuất. Trong bài viết “Gửi nông gia Việt Nam” in trên báo “Tấc đất” (12/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Thực túc thì binh cường. Cấy nhiều thì khỏi đói. Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do độc lập”.

Để tăng gia sức sản xuất nông sản, cuối năm 1945, Chính phủ lâm thời đã ra một loạt các bản Nghị định, Thông tư, Thông cáo về vấn đề này, trong đó có Thông tư về phương pháp khẩn cấp chấn hưng nông nghiệp. Từ những chỉ đạo ấy, kết quả sản lượng hoa màu đã tăng gấp bốn lần so với thời kỳ Pháp thuộc. Chỉ trong năm tháng từ tháng 11/1945 - 5/1946 đã đạt 506.000 tấn thóc, hoàn toàn có thể bù đắp được số thiếu hụt của vụ mùa năm 1945.

Trong lễ kỷ niệm một năm độc lập, ngày Quốc khánh 2/9/1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp tuyên bố: “Cuộc cách mạng đã chiến thắng được nạn đói, thật là một kỳ công của chế độ dân chủ”.

Loại trừ được giặc dốt cũng là thành tựu lớn nữa của Chính phủ lâm thời đầu tiên. Trước đó, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn 90% đồng bào ta mù chữ... Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”.

Thực hiện ý kiến của Bác, ngay sau phiên họp đầu tiên của Chính phủ, ngày 8/9/1945, Chính phủ đã ban hành 3 sắc lệnh, đó là: Sắc lệnh 17/SL thành lập Nha bình dân học vụ, Sắc lệnh 19/SL quy định mọi làng phải có lớp học bình dân và Sắc lệnh 20/SL cưỡng bức học chữ quốc ngữ không mất tiền; đặt sự nghiệp bình dân học vụ vừa là một phong trào cách mạng, vừa là thiết chế giáo dục của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Thực hiện sắc lệnh, phong trào Bình dân học vụ nhanh chóng được triển khai, tuy nhiên, để phong trào lan rộng và ăn sâu vào từng thôn xóm, bản làng, hàng triệu người dân trên khắp mọi miền đất nước, không kể tuổi tác, tầng lớp đều tham gia học chữ như một hành động yêu nước thiêng liêng. Nhờ vậy, chỉ trong một năm (8/1945-8/1946), đã có 75.000 lớp học được tổ chức với sự tham gia của 95.000 giáo viên; trên 2,5 triệu người đã biết đọc, biết viết.

Chính phủ lâm thời với sự chung sức đồng lòng của rất nhiều tri thức, nhân tài đã làm nên những kỳ tích lớn, diệt giặc đói, giặc dốt, thu phục lòng người, giúp đông đảo nhân dân ngày càng tin vào Đảng, Bác Hồ, Chính phủ, từ đó củng cố nền độc lập, bảo vệ thành quả cách mạng và là minh chứng cho việc tập hợp và huy động được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.

Chính phủ đã vì dân, chống giặc đói, giặc dốt cho dân, vì thế hợp lòng dân, được dân hết mực ủng hộ. Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ ngày 17 đến 24/9/1945, nhân dân đã ủng hộ 20 triệu đồng Đông Dương và 370 kg vàng, giúp Chính phủ giải quyết khó khăn tài chính.

Từ những thành tựu của buổi đầu độc lập, để tiếp tục đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân trong công cuộc kiến thiết đất nước, ngày 1/1/1946, Chính phủ lâm thời tự cải tổ thành Chính phủ Liên hiệp lâm thời. “Vì muốn tranh thủ hoàn toàn nền độc lập, muốn có sự hợp tác chặt chẽ giữa các đảng phái để làm cho Chính phủ mạnh mẽ thêm, nên nay thay đổi thành Chính phủ liên hiệp lâm thời. Trong giai đoạn này các đảng phái đoàn kết thì Chính phủ mới vượt qua được các cơn sóng gió” - Chính phủ Liên hiệp lâm thời nêu rõ mục đích.

Chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, từ 1/1- 2/3/1946, dưới sự lãnh đạo khéo léo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ Chính phủ liên hiệp lâm thời đã dàn xếp ổn thoả với quân đội Tưởng Giới Thạch; lãnh đạo và chi viện tích cực cho cuộc kháng chiến ở miền Nam; tổ chức thắng lợi cuộc Tổng tuyển cử; phát hành giấy bạc Việt Nam, động viên toàn dân tham gia sản xuất, đẩy lùi nạn đói.

Tiếp nối sứ mệnh đại đoàn kết toàn dân để kiến quốc, ngày 2/3/1946, Quốc hội khóa I kỳ họp thứ nhất đã trao quyền cho Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ Liên hiệp kháng chiến với nhiệm vụ “thực hiện triệt để sự thống nhất các lực lượng của quốc dân về phương diện quân sự, tuyên truyền cũng như về phương diện hành chính tư pháp, tổng động viên nhân lực và tài sản của quốc gia theo sự nhu cầu của tình thế, để đưa kháng chiến đến thắng lợi và nước nhà đến độc lập hoàn toàn”.

Đặc biệt, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc được thể hiện rõ nét nhất với chính phủ kháng chiến ra đời tháng 11/1946 với sự ủy nhiệm của Quốc hội về việc thành lập Chính phủ theo nguyên tắc đoàn kết tập hợp nhân tài không phân biệt đảng phái.

Hồ Chí Minh khẳng định: “Theo nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích, trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất của nước nhà”. “Chính phủ này là chính phủ toàn quốc có đủ nhân tài Trung - Nam - Bắc tham gia”- Chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo trước Quốc hội.

Chính phủ kháng chiến thể hiện rõ quan điểm luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt, rộng mở trên nguyên tắc thống nhất xây dựng chế độ dân chủ, xây dựng thực lực cách mạng nhằm mục đích duy nhất bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, vì độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc của nhân dân.

Từ Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam đến Chính phủ lâm thời, Chính phủ Liên hiệp lâm thời, Chính phủ Liên hiệp kháng chiến và Chính phủ kháng chiến, là hành trình quy tụ nhân tâm, đại đoàn kết toàn dân cùng chung sức trong công cuộc kiến thiết quốc gia, bảo vệ nền độc lập dân tộc.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Biết đồng sức, biết đồng lòng, việc gì khó, làm cũng xong
        • Mặc định

        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO