Tin tức

Tổng khởi nghĩa “long trời, lở đất”

Hà Anh 22/08/2025 07:00

(NB&CL) Sau những chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, sau những chuẩn bị kỹ càng về mọi mặt, đặc biệt là khi thời cơ “ngàn năm có một”xuất hiện (phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh vô điều kiện, quân Đồng minh chưa kéo vào nước ta giải giáp quân đội Nhật), Đảng ta đã nhanh nhạy chớp lấy để phát động nên cuộc Tổng khởi nghĩa “long trời lở đất”, giành chính quyền thành công về tay nhân dân, mang lại nền độc lập cho dân tộc.

“Phải hành động cho nhanh”

Đó là thông điệp được Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh trong bản Quân lệnh số 1 hạ lệnh Tổng khởi nghĩa được ban hành bởi Ủy ban Khởi nghĩa vào 23 giờ ngày 13/8/1945.

Quân lệnh có đoạn viết: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của nước nhà!... Dưới mệnh lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, đồng bào hãy đem hết tâm lực ủng hộ đạo Quân giải phóng, sung vào bộ đội, xông ra mặt trận đánh đuổi quân thù. Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng! Tổ quốc đang đòi hỏi những hy sinh lớn lao của các bạn! Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta!”.

anh1(1).jpg
Ngày 19/8/1945, cả Thủ đô ngập tràn cờ đỏ sao vàng. Hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội dự cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng, hưởng ứng cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Trước đó, tháng 7/1945, chiến tranh thế giới lần thứ 2 đi đến hồi cuối, phát-xít Nhật bại trận mất tinh thần và giữa tháng 8/1945 đã đầu hàng Đồng Minh. Thời điểm này 16.000 quân Anh chưa vào miền Nam và 200.000 quân Tưởng chưa vào miền Bắc để giải giáp quân Nhật; còn chính quyền tay sai thì như rắn mất đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh nắm bắt rất rõ về khả năng đầu hàng của quân Nhật cũng như tinh thần cách mạng sôi sục của quần chúng nhân dân, vì thế Người cho rằng phải chớp thời cơ “nghìn năm có một” này. Người ra chỉ thị: “... dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.

Sau khi Quân lệnh số 1 được ban hành vào ngày 13/8/1945, theo Thiếu tướng Đỗ Hồng Lâm, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Quốc phòng toàn dân, Việt Minh đã tổ chức các cuộc khởi nghĩa vũ trang trên toàn quốc. Các cuộc khởi nghĩa diễn ra liên tiếp từ Bắc vào Nam. Như vậy Quân lệnh số 1 ra đời đã đáp ứng đúng yêu cầu bức thiết của cách mạng và đáp ứng đúng nhu cầu, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, tạo ra một sức mạnh tinh thần lớn, huy động toàn dân tham gia vào cuộc khởi nghĩa.

Chớp thời cơ ngàn năm có một

Cũng chính thời điểm này, Đảng, Bác Hồ hiểu rất rõ rằng khoảng thời gian hai mươi ngày, từ ngày 15/8/1945 (Nhật hoàng chính thức tuyên bố đầu hàng Đồng minh) đến ngày 5/9/1945 (quân đồng minh kéo vào nước ta để giải giáp quân Nhật) là khoảng thời gian chín muồi nhất để tiến hành tổng khởi nghĩa, “cần phải tranh thủ từng giây, từng phút tình hình sẽ biến chuyển nhanh chóng, không thể để lỡ cơ hội”.

Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẩn trương chỉ đạo Hội nghị toàn quốc của Đảng (ngày 14-15/8) và Đại hội quốc dân (ngày 16-17/8) tại Tân Trào, chủ trương phát động toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân đồng minh vào nước ta giải giáp quân đội Nhật. Đại hội quốc dân Tân Trào tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh và bầu Ủy ban dân tộc giải phóng.

anh2.jpg
Đồng bào Sài Gòn hưởng ứng Lời kêu gọi Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng và Lãnh tụ Hồ Chí Minh. Ảnh: TTXVN

Cũng ngay sau đó, ngày 18/8/1945, Hồ Chí Minh viết thư kêu gọi tổng khởi nghĩa tới đồng bào cả nước, trong đó khẳng định: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Đồng loạt vùng dậy, tổng khởi nghĩa

Cũng chính từ chủ trương “không thể để lỡ cơ hội”, một quyết định rất nhanh, rất nhạy bén nhưng cũng rất sáng suốt được Đảng và Bác Hồ đưa ra: Không câu nệ, tỉnh, huyện hay xã mà địa phương nào điều kiện chín muồi thì thực hiện tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày 18/8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam...

Chiều ngày 16/8/1945, một đơn vị quân giải phóng do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên.

Nhiều huyện, xã thuộc một số tỉnh nối tiếp nhau nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 18/8/1945: nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam giành được chính quyền ở tỉnh lỵ sớm nhất trong cả nước.

Ngày 19/8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Sáng 20/8, tại Vườn hoa Con Cóc (còn gọi là Vườn hoa Diên Hồng), Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời Bắc bộ do đồng chí Nguyễn Khang làm Chủ tịch, Ủy ban nhân dân lâm thời Hà Nội do đồng chí Nguyễn Huy Khôi làm Chủ tịch, chính thức ra mắt nhân dân.

Ngày 23/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và ở Bắc Kạn, Hòa Bình, Hải Phòng, Hà Đông, Quảng Bình, Quảng Trị, Bình Định, Gia Lai, Bạc Liêu...

Ngày 25/8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài Gòn - Gia Định, Kon Tum, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Trà Vinh, Biên Hòa, Tây Ninh, Bến Tre... Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành chính quyền. Đến ngày 28/8/1945, cách mạng đã giành chính quyền trong cả nước.

Chỉ chưa đầy nửa tháng, từ 13-28/8/1945, trong một khoảnh khắc “chớp mắt của lịch sử” (chữ dùng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp), cả dân tộc Việt Nam đã đồng lòng, đồng loạt vùng lên trong thời cơ vụt đến, làm nên thắng lợi của một cuộc Tổng khởi nghĩa thành công trọn vẹn, kịp thời và ít đổ máu. Cuộc cách mạng tháng Tám trong mắt nhìn của các nhà quan sát, các sử gia, trở thành một trong cuộc cách mạng thần tốc nhất trong lịch sử nhân loại. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân Việt Nam, từ thân phận nô lệ, đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Từ đêm trường nô lệ, nhờ cách mạng tháng Tám năm 1945, bình minh của độc lập, tự do đã đến với dân tộc Việt Nam.

Hà Anh