Chủ động, tích cực, nhanh chóng tập trung xây dựng lực lượng
(NB&CL) Khi chủ trương, đường lối đã được chuẩn bị, hoạch địch rõ ràng, bước tiếp theo của quá trình chuẩn bị là xây dựng lực lượng. Nhìn thấu thực tế thời cuộc, Đảng ta ngay thời điểm đó đã xác định việc này phải làm ngay, làm nhanh.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 tháng 5/1941 chỉ rõ: “Chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù… Với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”.
Lực lượng chính trị quần chúng - Tiền đề vững chắc cho tổng khởi nghĩa
Thực tế từ cao trào cách mạng 1930 - 1931, cao trào dân chủ 1936 - 1939, cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945 trong đó lực lượng quần chúng là nòng cốt đã là minh chứng cho thấy lực lượng quần chúng quan trọng như thế nào trong các cuộc đấu tranh. Đặc biệt, thời kỳ cao trào kháng Nhật, cứu nước (thời kỳ tiền khởi nghĩa), sau chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12/3/1945, việc Đảng lãnh đạo quần chúng tiến hành khởi nghĩa từng phần, làn sóng khởi nghĩa phát triển mau lẹ, kịp thời và dâng lên gần như đồng thời ở nhiều nơi... được xem là dịp để quần chúng nhân dân tổng diễn tập lại lần cuối, sẵn sàng mọi mặt cho cuộc cách mạng sẽ diễn ra trong mấy tháng tới. Sự góp mặt của lực lượng chính trị quần chúng đã làm nên Xô viết Nghệ Tĩnh, làm nên cuộc mít tinh hơn 2 vạn người tại nhà Đấu Xảo - Hà Nội… khiến quân địch điêu đứng, tạo tiền đề vững chắc cho cách mạng tháng Tám sau này.
.jpg)
Từ sự nhận diện ấy, Đảng ta đã xác định lực lượng chính trị quần chúng đóng một vai trò quan trọng cho sự thành công của cách mạng tháng Tám. Tạo dựng hệ thống tổ chức cơ sở Đảng ở khắp các địa phương trên cả nước; xây dựng khối liên minh công - nông thời kỳ 1930 - 1931, việc thành lập Mặt trận Việt Minh năm 1941… chính là những phương cách Đảng tạo dựng lực lượng chính trị cho mình.
Đặc biệt kể từ khi Mặt trận Việt Minh ra đời, như khẳng định trong cuốn “Cách mạng tháng Tám của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương”, “toàn bộ phong trào chống phát xít Pháp - Nhật của nhân dân ta mang tên là Phong trào Việt Minh, cái tên tiêu biểu cho lòng yêu nước, chí quật cường của dân tộc ta”.
Dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh, tại các vùng căn cứ địa cách mạng, công cuộc chuẩn bị mọi mặt để tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền được xúc tiến mạnh mẽ, gấp rút. Để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa đánh đuổi Nhật - Pháp, Việt Minh triển khai công tác tuyên truyền mạnh mẽ. Nhiều chỉ thị, lời kêu gọi và cả các truyền đơn của Tổng bộ Việt Minh được truyền đi tới các địa phương và phổ biến tới Nhân dân.
Sáng ngày 19/8/1945, theo lời kêu gọi và thực hiện Chỉ thị của Việt Minh, cả Hà Nội vùng dậy dưới rừng cờ đỏ sao vàng với hàng nghìn nông dân, công nhân, dân nghèo, bằng những vũ khí thô sơ, cùng với hàng vạn quần chúng nhân dân ở khu vực ngoại thành kéo vào, xuống đường tiến thẳng về trung tâm Nhà hát thành phố.
Lực lượng vũ trang - nòng cốt trong Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
Để giành được chính quyền cách mạng, bên cạnh lực lượng quần chúng, Đảng ta luôn chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang, coi đây là lực lượng nòng cốt, là yếu tố mang tính quyết định trong sự thành công của cách mạng tháng Tám. Từ những nhân tố vũ trang nhỏ lẻ ban đầu, Đảng đã từng bước xây dựng các đội du kích, tiền thân của lực lượng vũ trang trực tiếp tham gia chiến đấu giành chính quyền trong những ngày Tổng khởi nghĩa sau này.
Ngày 16/10/1940, đơn vị du kích Bắc Sơn đầu tiên được tổ chức gồm 20 chiến sĩ, trang bị một số súng trường, súng kíp, dao găm. Ngay sau khi được tổ chức, đội du kích đã tiến hành vũ trang tuyên truyền trong nhân dân chống địch khủng bố, trừng trị bọn tay sai phản động. Một thời gian sau đó, ngày 14/2/1941, Ðội du kích Bắc Sơn được tái lập tại một địa điểm thuộc khu rừng Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn.

Từ cuối năm 1941, nhiều nơi trong cả nước thành lập đội vũ trang cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 8 (5/1941) Trung ương Đảng ra nghị quyết thành lập các đội tự vệ cứu quốc, tự vệ chiến đấu (tổ du kích) làm cơ sở cho đấu tranh ở địa phương, cũng như Tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước. Đến tháng 7/1940 tại nhiều nhà máy, trường học, đường phố các tỉnh Nam Kỳ, ngoài tổ chức tự vệ đã hình thành các tổ, tiểu tổ du kích. Ở vùng nông thôn, nhiều xã tổ chức được từ một tiểu đội đến một trung đội du kích.
Sau khởi nghĩa Bắc Sơn (ngày 27/9/1940), đội du kích (lấy tên là Cứu quốc quân) được duy trì và phát triển. Tháng 12/1941, Hồ Chí Minh thành lập đội vũ trang tập trung của tỉnh Cao Bằng (đội du kích Pác Bó). Ðến tháng 6/1943, Ðội du kích Pác Bó đã tiến hành xây dựng được ba đội vũ trang châu, một số đội vũ trang ở tổng, đội tự vệ chiến đấu ở xã và tổ chức được hai lớp huấn luyện cán bộ.
Đặc biệt dấu ấn quan trọng mang tính quyết định là việc ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập. Trước đó, từ năm 1941, sau khi về nước, qua phân tích tình hình cũng như thực tiễn của cuộc đấu tranh, riêng về mặt quân sự Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá “lực lượng vũ trang của ta đã ít lại dễ phân tán, thiếu hẳn một lực lượng nòng cốt”. Chính thực tiễn đó đã đặt ra vấn đề cần phải “tập trung những cán bộ và chiến sĩ anh dũng nhất, những vũ khí tốt nhất, tổ chức ra một đội vũ trang tập trung, một đội quân chủ lực để hoạt động, đội vũ trang đó là Đội Quân giải phóng. Ta sẽ dùng hình thức vũ trang để gây ảnh hưởng cách mạng sâu rộng trong quần chúng”. Chú Văn - Võ Nguyên Giáp đã là cái tên được Người “nhắm tới” cho trọng trách đứng ra thành lập nên “lực lượng vũ trang nòng cốt” này.
Sau một thời gian gấp rút chuẩn bị, vào lúc 17 giờ ngày 22/12/1944, tại núi Dền Sinh dãy Khau Giáng thuộc xã Tam Kim và Hoa Thám, châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời là sự kiện lịch sử quan trọng trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền ở nước ta, đánh dấu bước khởi đầu công cuộc xây dựng và phát triển quân đội cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngay sau khi ra đời, đội quân chủ lực đầu tiên của cách mạng đã đánh thắng liên tiếp hai trận ở Phai Khắt (ngày 25/12/1944) và Nà Ngần (ngày 26/12/1944) thuộc tỉnh Cao Bằng.
Với sự ra đời của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, hệ thống tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng dần được củng cố, hoàn thiện gồm 3 thứ quân: Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân – đội quân chủ lực; các đội vũ trang thoát ly ở các tỉnh, các châu, các huyện và các đội quân địa phương; các đội tự vệ chiến đấu, tự vệ cứu quốc ở các làng xã, xí nghiệp, đường phố - lực lượng bán vũ trang địa phương. Có thể nói, lực vũ trang đã trở thành lực lượng giữ vai trò nòng cốt, là chỗ dựa để cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại các tỉnh, thành phố trên cả nước nhanh chóng giành thắng lợi, hạn chế thương vong.