Thế nước và vận hội vươn mình
(NB&CL) Tám mươi năm sau ngày độc lập, Việt Nam đã vươn lên từ tro tàn chiến tranh và nghèo nàn lạc hậu để trở thành một quốc gia năng động, hội nhập sâu rộng, có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế chưa từng có. Thế nước hôm nay được hun đúc từ sức mạnh nội lực, sự ổn định chính trị, thành quả phát triển kinh tế - xã hội và uy tín đối ngoại ngày càng cao.
Việt Nam - Từ khát vọng ĐỘC LẬP đến mục tiêu HÙNG CƯỜNG
Mỗi dân tộc đều có những khoảnh khắc định mệnh, và với Việt Nam, mùa thu 1945 là dấu mốc làm thay đổi vĩnh viễn vận mệnh đất nước. Từ bản Tuyên ngôn Độc lập vang vọng trên Quảng trường Ba Đình, một dân tộc đứng dậy làm chủ tương lai đã mở ra hành trình tám mươi năm gian nan nhưng rực rỡ. Từ bóng tối nô lệ đến ánh sáng độc lập, từ chiến tranh khốc liệt đến hòa bình vững bền, từ nghèo nàn, lạc hậu đến phát triển năng động, hội nhập sâu rộng, chúng ta không chỉ khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và khát vọng vươn lên, mà còn hình thành nên một “thế và lực mới” cho đất nước trong kỷ nguyên mới.
Loạt bài “Việt Nam - Từ khát vọng độc lập đến mục tiêu hùng cường” sẽ khắc họa bức tranh tổng thể về vận hội và thách thức của dân tộc trong bước ngoặt lịch sử: nhận diện thời cơ, quyết liệt cải cách bộ máy, kiến tạo thể chế, củng cố đại đoàn kết toàn dân. Bởi chỉ khi sức mạnh nội lực được giải phóng và tiềm năng được khai mở, Việt Nam mới có thể bứt phá để định hình tầm vóc quốc gia trong thế kỷ XXI.
Vận hội phía trước là cơ hội vàng để đất nước bứt phá, tiến vào kỷ nguyên phát triển hùng cường, thịnh vượng. Vấn đề đặt ra là phải hành động nhanh, quyết liệt và sáng tạo để biến thời cơ lịch sử thành hiện thực, định hình tầm vóc Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
80 năm – hành trình từ gian khó đến thành tựu rực rỡ
Ngày 2/9/1945, trước hàng vạn đồng bào ở Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong tiếng reo hò của biển người và ánh mắt rạng ngời của những người dân vừa giành lại tự do, một kỷ nguyên mới mở ra cho dân tộc Việt Nam – kỷ nguyên độc lập, tự chủ và khát vọng vươn lên. Nhưng đó cũng là khởi đầu cho một chặng đường gian nan, bởi nền kinh tế kiệt quệ sau chiến tranh, dân trí thấp, cơ sở hạ tầng hầu như không có, kẻ thù vẫn rình rập ở mọi phía.
Từ một đất nước nông nghiệp lạc hậu, phải đối diện hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân và đế quốc, Việt Nam đã viết nên những trang sử oai hùng: Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, Đại thắng mùa Xuân 1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc hơn một thế kỷ bị đô hộ. Ngay cả khi vừa thoát khỏi khói lửa chiến tranh, đất nước vẫn phải đối diện với muôn vàn khó khăn: kinh tế trì trệ, bao vây cấm vận, thiên tai, thiếu đói… Song bằng ý chí tự lực, tinh thần đoàn kết và niềm tin vào con đường đã chọn, Việt Nam đã vượt qua từng thử thách.

Bước ngoặt lịch sử diễn ra năm 1986, khi Đảng khởi xướng công cuộc Đổi mới. Từ đó, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành, mở ra một không gian phát triển mới. Sau gần 4 thập kỷ đổi mới, Việt Nam từ một nước nghèo, lạc hậu trở thành quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình, với tốc độ tăng trưởng kinh tế 6-7%/năm. Tổng sản phẩm quốc nội từ mức chưa đầy 14 tỷ USD năm 1985 tăng lên khoảng 510 tỷ USD năm 2025, trong khi kim ngạch xuất nhập khẩu vượt ngưỡng 700 tỷ USD, đưa Việt Nam lọt vào nhóm 20 nền kinh tế thương mại lớn nhất thế giới và đứng thứ tư Đông Nam Á.
Với việc thực hiện nhiều đột phá chiến lược về kinh tế- xã hội, diện mạo đất nước thay đổi từng ngày. Các ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng trưởng mạnh mẽ và liên tục. Trong đó, hạ tầng giao thông, đô thị, năng lượng phát triển vượt bậc. Hệ thống cảng biển, sân bay, đường cao tốc trải dài từ Bắc vào Nam; mạng viễn thông thế hệ mới được triển khai; chuyển đổi số và kinh tế xanh trở thành động lực phát triển mới. Trong lĩnh vực xã hội, đời sống nhân dân được nâng cao, tỷ lệ nghèo giảm từ hơn 60% xuống dưới 3%, tuổi thọ trung bình đạt gần 75 tuổi, giáo dục phổ cập, y tế đạt nhiều tiến bộ, chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục cải thiện. Việt Nam được Liên Hợp Quốc đánh giá là một trong năm nước hoàn thành các mục tiêu thiên niên kỷ tốt nhất về nghèo đói, mẹ và trẻ em, suy dinh dưỡng và phòng chữa bệnh.
Tám mươi năm sau ngày lập nước, Việt Nam đã thay đổi diện mạo một cách toàn diện và sâu sắc, vị thế quốc tế cũng được nâng cao rõ rệt. Từ một nước bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, quan hệ kinh tế với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế quan trọng, là thành viên tích cực của Liên Hợp Quốc, ASEAN, APEC, ASEM; ký kết 17 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, trong đó có CPTPP, EVFTA và RCEP. Hình ảnh Việt Nam gắn liền với hòa bình, hợp tác, trách nhiệm và đổi mới sáng tạo trở nên ngày càng nổi bật.
Thế và lực của Việt Nam hôm nay
Các chuyên gia đều đánh giá, chưa bao giờ Việt Nam hội tụ đồng thời nhiều yếu tố thuận lợi như hiện nay và như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận định,“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Thế và lực của Việt Nam là sự cộng hưởng giữa sức mạnh nội lực và uy tín đối ngoại, giữa khát vọng dân tộc và lòng tin của nhân dân.
Thế nước hôm nay hội tụ ở nhiều phương diện. Về chính trị- xã hội, sự lãnh đạo của Đảng được củng cố, đồng thuận xã hội cao, hệ thống chính trị vững vàng. Về kinh tế- hội nhập, chuỗi cung ứng toàn cầu đang dịch chuyển, Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn cho vốn đầu tư, công nghệ và thương mại quốc tế. Về địa chính trị- chiến lược, vị trí trung tâm khu vực châu Á- Thái Bình Dương, gần các tuyến hàng hải huyết mạch, mang lại lợi thế hợp tác và cạnh tranh toàn cầu.

Lực của đất nước không chỉ nằm ở quy mô GDP hay hạ tầng hiện đại, mà còn ở khả năng thích ứng với biến động toàn cầu, năng lực đổi mới sáng tạo và khát vọng vươn lên. Việt Nam đã chứng minh bản lĩnh ấy khi kiểm soát tốt đại dịch COVID-19, duy trì tăng trưởng dương và giữ ổn định kinh tế vĩ mô trong khi nhiều nền kinh tế lớn gặp khó khăn.
Không chỉ phát triển về kinh tế, Việt Nam còn đạt được những thành tựu toàn diện trên nhiều lĩnh vực, tạo dựng thế và lực mới. Văn hóa ngày càng được nhìn nhận là nền tảng tinh thần của xã hội và là động lực nội sinh cho phát triển. Các giá trị truyền thống được kế thừa, phát huy; văn hóa dân tộc hòa quyện với tinh thần đổi mới, hiện đại. Nhiều di sản vật thể và phi vật thể được UNESCO công nhận. Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ngày càng phong phú, lành mạnh, các quyền tự do sáng tạo, quyền tiếp cận văn hóa được bảo đảm.
Trong lĩnh vực xã hội, các chính sách an sinh ngày càng toàn diện. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, hệ thống y tế, giáo dục được cải thiện, tiếp cận ngày càng rộng khắp. Mục tiêu phát triển vì con người được đặt ở vị trí trung tâm. Quan điểm “không để ai bị bỏ lại phía sau” đã trở thành nguyên tắc xuyên suốt trong hoạch định và thực thi chính sách.
Về quốc phòng, an ninh, Việt Nam kiên định đường lối quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Quốc phòng không nhằm chạy đua vũ trang mà để bảo vệ hòa bình, chủ quyền, lợi ích quốc gia – dân tộc. Môi trường chính trị - xã hội ổn định là nền tảng quan trọng cho phát triển bền vững.
“Việt Nam đã bước ra khỏi ngưỡng của nước chậm phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình và vượt qua sự bảo trợ của ODA dành cho các nước chậm phát triển. Chúng ta có một môi trường hợp tác quốc tế cực kỳ tốt, với 16 Hiệp định FTA với hơn 60 nước, chiếm hơn 50% GDP và dòng thương mại toàn cầu, cùng với các hệ sinh thái về thương mại rất tích cực, tiên tiến nhất. Hiện nay, Việt Nam có môi trường đầu tư được đánh giá rất tích cực, là điểm đến của các dòng vốn FDI. Uy tín của Chính phủ, hệ số tín nhiệm quốc gia được nâng lên với chỉ số ngày càng cao, và ngay cả chỉ số hạnh phúc cũng đang ngày càng phát triển” - Chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Minh Phong đánh giá.
Vận hội mới – cơ hội vàng trong tầm tay
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 lan tỏa khắp toàn cầu, thế giới đang chứng kiến những biến động lớn: các vấn đề an ninh phi truyền thống gia tăng, cạnh tranh địa chính trị giữa các cường quốc ngày càng gay gắt, chuỗi cung ứng toàn cầu tái cấu trúc. Đây chính là những yếu tố tạo nên vận hội mới cho Việt Nam.
Làn sóng dịch chuyển đầu tư từ các trung tâm sản xuất truyền thống sang những nền kinh tế ổn định, chi phí cạnh tranh mở ra cơ hội thu hút mạnh mẽ các ngành công nghệ cao, công nghiệp sạch. Xu thế phát triển kinh tế số và kinh tế xanh – nơi Việt Nam sở hữu lợi thế về thị trường trẻ, hạ tầng số đang phát triển nhanh và cam kết rõ ràng đạt mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 – càng củng cố vị thế của đất nước. Cùng với đó là uy tín quốc tế ngày càng cao, niềm tin của các đối tác coi Việt Nam là thành viên đáng tin cậy, đóng vai trò cầu nối hợp tác trong khu vực.
Chuyển đổi số gắn liền với chuyển đổi xanh được xem là “cánh cửa” giúp Việt Nam rút ngắn con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Báo cáo của Đại học Kinh tế Quốc dân cho thấy, kịch bản tăng trưởng xanh mạnh mẽ có thể giúp GDP tăng 10- 12% mỗi năm – một minh chứng sống động cho lợi ích của mô hình phát triển bền vững. Tại Diễn đàn “Kiến tạo nền kinh tế mới: Cách mạng trong chuyển đổi số - chuyển đổi xanh và vai trò tiên phong của doanh nghiệp”, PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng ban Kinh tế Trung ương, khẳng định: “Chuyển đổi số gắn với chuyển đổi xanh sẽ là phương thức mới có tính đột phá”.
Điều này một lần nữa được khẳng định tại Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó nghị quyết nhấn mạnh: Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đang là yếu tố quyết định phát triển của các quốc gia; là điều kiện tiên quyết, thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc.
Chuyên gia kinh tế TS. Nguyễn Minh Phong cũng cho rằng: “Chúng ta đang ở giai đoạn hiếm có khi cả thế giới chuyển đổi mô hình phát triển, còn Việt Nam vừa có cơ hội đón nhận dòng vốn, vừa có khả năng đi tắt đón đầu trong chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn”. Ông cho biết, có những lĩnh vực Việt Nam đã vươn lên ngang tầm khu vực, thậm chí thế giới, như công nghệ thông tin, hạ tầng mạng 5G, một số ứng dụng trí tuệ nhân tạo, cùng những ngành dịch vụ mũi nhọn như y tế và du lịch.
Hành động để bứt phá, tiến vào kỷ nguyên hùng cường, thịnh vượng
Vận hội là rất lớn nhưng thách thức phía trước chúng ta cũng không nhỏ. Đó là áp lực cạnh tranh quốc tế gay gắt, nguy cơ tụt hậu công nghệ, biến đổi khí hậu, già hóa dân số, bất bình đẳng gia tăng. Nếu không cải cách mạnh mẽ và kịp thời, “cửa sổ cơ hội” có thể khép lại trong một, hai thập kỷ tới.

Hiện nay, thách thức lớn nhất chính là cải cách thể chế và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Thủ tục hành chính còn rườm rà, quy hoạch chậm, pháp luật chồng chéo, môi trường kinh doanh vẫn tồn tại rào cản – tất cả là những nút thắt cần tháo gỡ bằng những giải pháp mạnh mẽ và quyết liệt.
TS. Nguyễn Sỹ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, từng cảnh báo: “Nếu không cải cách thể chế đủ mạnh, cơ hội sẽ trôi qua nhanh hơn tốc độ chúng ta chuẩn bị”. Cải cách ấy không chỉ là sửa vài điều khoản luật, mà là thay đổi tư duy quản trị quốc gia, đặt doanh nghiệp và người dân thực sự vào trung tâm của mọi chính sách.
Song song với cải cách thể chế, Việt Nam cần một bước tiến dài trong đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ, bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực quản trị quốc gia, hiện đại hóa bộ máy hành chính, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo cũng như kiên định giữ vững độc lập tự chủ, an ninh quốc gia – để vận hội không trở thành gánh nặng, mà thành bệ phóng.
Tám mươi năm qua, Việt Nam đã chứng minh rằng một dân tộc với ý chí quật cường, khát vọng vươn lên và tinh thần đoàn kết có thể vượt qua mọi thử thách. Lúc này, thế nước đang mạnh, lực đang lên, vận hội đang mở. Vấn đề không còn là “có làm hay không” mà là “làm nhanh, làm quyết liệt, làm đồng bộ và làm sáng tạo”. Như Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Cần đột phá thể chế, pháp luật để đất nước vươn mình”, đồng thời “thực hành tiết kiệm, phát huy đoàn kết, khơi dậy khát vọng phát triển” chính là phương châm hành động của cả dân tộc trong giai đoạn mới.
Từ một dân tộc vùng lên giành độc lập đến một quốc gia tự tin hội nhập toàn cầu, hành trình 80 năm đã khẳng định bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam. Trên nền tảng độc lập, tự chủ và khát vọng đã được tôi luyện, cánh cửa bước vào kỷ nguyên mới đang rộng mở – nơi mỗi quyết sách, mỗi bước tiến sẽ định hình tầm vóc quốc gia trong thế kỷ XXI.
Kỷ niệm 80 năm Quốc khánh không chỉ để nhớ về quá khứ hào hùng, mà là thời khắc xác định rõ vận hội và trách nhiệm. Việt Nam đã có nền móng vững vàng để bước vào một kỷ nguyên phát triển – kỷ nguyên mà thế và lực hòa quyện, khát vọng và trí tuệ đồng hành, đưa đất nước vươn tới tầm cao mới của phồn vinh, hạnh phúc và trường tồn.