Trường hợp án tử hình nào được chuyển thành hình phạt tù chung thân?
(CLO) Nghị quyết số 03/2025 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao quy định ba trường hợp người bị kết án tử hình trước ngày 1/7 mà chưa thi hành án thì được chuyển hình phạt thành tù chung thân.
Theo đó, 3 trường hợp được chuyển từ án Tử hình sang hình phạt Chung thân: Người mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối; Người bị kết án do phạm một trong 8 tội đã được bỏ án tử hình; Người không phải chủ mưu, tang vật ít trong vụ án ma tuý.

Cụ thể như sau:
Với trường hợp Người mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối: phải có kết luận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp chuyên sâu theo quy định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh. Kết luận ban hành trong thời gian không quá 6 tháng, tính đến thời điểm Chánh án TAND Tối cao xem xét, quyết định.
Sau khi nhận được văn bản của trại tạm giam về các trường hợp này hoặc trong quá trình rà soát, phát hiện người bị kết án tử hình thuộc trường hợp trên, tòa sơ thẩm lập danh sách và gửi cùng hồ sơ vụ án, tài liệu kèm theo đến VKSND Tối cao để nêu ý kiến. Chánh án TAND Tối cao sẽ là người cuối cùng quyết định.
Đối với người bị kết án tử hình về một trong 8 tội sau cũng được giảm án: Tham ô tài sản (điều 353); Nhận hối lộ (điều 354); Vận chuyển trái phép chất ma túy (điều 250); Sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (điều 194); Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (điều 109); Gián điệp (điều 110); Phá hoại cơ sở vật chất kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (điều 114); Phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (điều 421).
Trường hợp thứ ba là người bị kết án tử hình về tội Sản xuất trái phép chất ma túy (điều 248) hoặc tội Mua bán trái phép chất ma túy (điều 251) nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Khối lượng, thể tích chất ma túy được xác định trong bản án để quyết định hình phạt bằng hoặc thấp hơn khối lượng, thể tích chất ma túy thấp nhất quy định tại khoản 5 điều 248 hoặc khoản 5 điều 251 của Bộ luật Hình sự;
Khối lượng, thể tích chất ma túy được xác định trong bản án để quyết định hình phạt lớn hơn khối lượng, thể tích chất ma túy thấp nhất quy định tại khoản 5 điều 248 hoặc khoản 5 điều 251 của Bộ luật Hình sự mà người phạm tội không phải là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy hoặc không có 2 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trở lên.
Bên cạnh đó Nghị quyết cũng lưu ý một số trường hợp cụ thể khi tòa án xem xét, quyết định chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.
Trường hợp bản án sơ thẩm nhận định, đánh giá người bị kết án tử hình là người chủ mưu, cầm đầu hoặc chỉ huy nhưng bản án phúc thẩm không nhận định hoặc có nhận định người bị kết án tử hình là người chủ mưu, cầm đầu hoặc chỉ huy và giữ nguyên hình phạt tử hình thì không chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.
Trường hợp bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm đều không nhận định, đánh giá người bị kết án tử hình là người chủ mưu, cầm đầu hoặc chỉ huy mà chỉ căn cứ vào khối lượng, thể tích chất ma túy, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt thì chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân nếu họ không có 2 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trở lên.
Trường hợp vụ án có đồng phạm nhưng chỉ một bị cáo bị đưa ra xét xử và bị kết án tử hình về tội Sản xuất trái phép chất ma túy (điều 248) hoặc tội Mua bán trái phép chất ma túy (điều 251) thì tòa án chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân nếu bản án không nhận định, đánh giá người bị kết án tử hình là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy hoặc không có 2 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trở lên.
Nếu vụ án không có đồng phạm và bị cáo bị kết án tử hình về tội sản xuất trái phép chất ma túy (điều 248) hoặc tội mua bán trái phép chất ma túy (điều 251) thì tòa án chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân nếu họ không có 2 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trở lên,...
Nghị quyết số 03/2025 có hiệu lực thi hành từ 1/11.