Cần một cuộc cách mạng thể chế mở khóa sức mạnh Việt Nam
(NB&CL) Gần 40 năm sau Đổi mới 1986, Việt Nam lại đứng trước một ngã rẽ lịch sử. Các chuyên gia đồng thuận rằng, nếu “Đổi mới lần 1” là cuộc giải phóng tư duy kinh tế, thì “Đổi mới lần 2” phải là cuộc giải phóng thể chế, nơi luật chơi minh bạch, quyền lực được kiểm soát và mọi tiềm năng quốc gia được khơi dậy. Đó cũng là tiền đề để hiện thực hoá mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số của Việt Nam.
Cải cách thể chế để mở khoá sức mạnh
Trong lịch sử phát triển, mọi quốc gia bứt phá đều bắt đầu từ một cải cách thể chế sâu rộng. TS Nguyễn Sĩ Dũng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, ví thể chế như “hệ điều hành” của quốc gia: “Một chiếc máy tính mạnh đến đâu mà hệ điều hành lỗi thời, chắp vá, thiếu nhất quán thì cũng không thể vận hành trơn tru. Tương tự, một quốc gia dù có tài nguyên dồi dào, dân số vàng, doanh nghiệp năng động… mà thể chế yếu kém thì tiềm năng sẽ bị kìm hãm, thậm chí lãng phí”.
Ông nhấn mạnh, thể chế không chỉ định hướng con đường phát triển mà còn quyết định tốc độ tiến bước. Một thể chế tốt sẽ giảm chi phí giao dịch, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, giải phóng sức sáng tạo. Ngược lại, thể chế trì trệ sẽ tạo ra những “nút thắt vô hình” khiến mọi nguồn lực từ vốn đầu tư đến chất xám bị tắc nghẽn.

Không phải ngẫu nhiên, Hàn Quốc, Singapore hay Rwanda đều khởi đầu bằng cải cách thể chế. Đó là cách duy nhất để khai mở những tiềm năng, kích hoạt động lực nội sinh và kiến tạo niềm tin thị trường.
PGS.TS Tô Thế Nguyên (Kinh tế chính trị, Trường Đại học Kinh tế, ĐHQG Hà Nội) nhận định: Kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn tái cấu trúc toàn diện, xoay quanh ba trục chính: chuyển dịch chuỗi cung ứng – chuyển đổi số – chuyển đổi xanh.
Theo ông Nguyên, Việt Nam đã chủ động và sâu rộng hội nhập vào những tuyến giao thương chiến lược, trở thành thành viên tích cực trong các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP – những cánh cửa lớn mở ra thị trường toàn cầu, nhưng đồng thời đặt ra tiêu chuẩn cao về minh bạch, cạnh tranh công bằng và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Khẳng định vị thế và khát vọng vươn lên mạnh mẽ của quốc gia trên trường quốc tế.
Việt Nam phải cải cách thể chế trong bối cảnh chuyển đổi kép: vừa số hóa nền kinh tế, vừa chuyển sang mô hình tăng trưởng xanh. Với Việt Nam, đây là thời khắc “nước rút” để khẳng định và định hình vị thế dân tộc. Thể chế được kỳ vọng thực thi ba chức năng then chốt: trước hết là kiến tạo một môi trường kinh doanh minh bạch, ổn định và có thể dự đoán – nền tảng sống còn để thu hút dòng vốn dài hạn và nuôi dưỡng đổi mới sáng tạo; tiếp đến là định hướng và điều phối nguồn lực chiến lược, đặc biệt cho các ngành mũi nhọn như công nghệ cao, năng lượng tái tạo, kinh tế số, công nghệ sinh học; cuối cùng là nâng cao khả năng chống chịu và thích ứng, để đất nước không bị động trước biến đổi khí hậu, xung đột địa chính trị hay những cơn địa chấn tài chính toàn cầu.
Việt Nam hôm nay đã hội nhập sâu rộng vào mạng lưới thương mại toàn cầu, đối mặt với áp lực chuyển đổi kép và có khu vực tư nhân vươn lên giữ vai trò đầu tàu tăng trưởng. Chính vì thế, yêu cầu về một nền quản trị công minh bạch, hiệu quả và tầm nhìn dài hạn chưa bao giờ trở nên cấp thiết như lúc này.
PGS.TS Tô Thế Nguyên đề xuất một loạt giải pháp đồng bộ: Về đất đai cần định giá sát thị trường, số hóa thông tin, công khai quy hoạch. Đầu tư công phải rõ trách nhiệm, giám sát trực tuyến, công khai tiến độ và chi phí. Hành chính công sẽ số hóa toàn bộ dịch vụ, chuẩn hóa thủ tục trên một nền tảng duy nhất. Phân cấp – phân quyền trao quyền cho địa phương kèm cơ chế giám sát độc lập, xử lý nghiêm vi phạm.
Tư duy đột phá để hiện thực hoá mục tiêu tăng trưởng 2 con số
TS Nguyễn Sĩ Dũng cho rằng, tăng trưởng GDP 2 con số không thể đạt bằng những nỗ lực rời rạc, mà cần nền tảng thể chế kiến tạo, luật pháp ổn định và tư duy điều hành đột phá.
Ông đề xuất 3 thay đổi căn bản: Chuyển từ “quản lý” sang “kiến tạo” để khuyến khích sáng tạo, khởi nghiệp; cải cách luật pháp theo hướng “bền luật, bớt quy định” nhằm tạo môi trường đầu tư ổn định; và phân quyền, phân cấp mạnh mẽ, trao quyền tự chủ thực chất cho địa phương gắn với trách nhiệm giải trình.
PGS.TS Tô Thế Nguyên nhận định, mục tiêu tăng trưởng 2 con số là khó khả thi trong ngắn hạn, nên được coi là định hướng dài hạn. Với GDP 476,3 tỷ USD năm 2024, Việt Nam phải chuyển sang tăng trưởng theo chiều sâu, nâng cao năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP), tận dụng công nghệ số và AI để nâng cao hiệu quả, nhất là cho khối doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Liên quan đến phân quyền, phân cấp mạnh mẽ gắn với trách nhiệm giải trình, TS Dũng cho rằng đây thực chất là cú hích chiến lược cho Việt Nam trong thập niên tới. Một nền kinh tế hiện đại không thể vận hành hiệu quả trên cấu trúc quản lý tập trung, cào bằng. Khi địa phương vẫn phải “xin” từng dự án, biên chế, cơ chế, thì khó kỳ vọng sự năng động, sáng tạo.
PGS.TS Tô Thế Nguyên bổ sung, đổi mới mô hình tăng trưởng là điều kiện cần để vượt bẫy thu nhập trung bình, với ba trụ cột: cải cách thể chế, đổi mới sáng tạo và phát triển nguồn nhân lực. Kinh nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan cho thấy cải cách thể chế mạnh mẽ là động lực đưa nền kinh tế lên tầm sản xuất cao hơn. Những động thái quyết liệt gần đây của Đảng và Chính phủ, bao gồm việc ban hành Bộ tứ trụ cột (các Nghị quyết số 57, 59, 66 và 68) sắp xếp lại hệ thống cơ quan quản lý và thực hiện mô hình chính quyền hai cấp, thể hiện rõ quyết tâm cải cách thể chế mạnh mẽ.
PGS.TS Tô Thế Nguyên cho rằng tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững vốn tiềm ẩn mâu thuẫn, nhất là khi Việt Nam chịu áp lực biến đổi khí hậu, già hóa dân số và khoảng cách vùng miền.
Ông đề xuất: Chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng “chất lượng, bao trùm và xanh”, dựa vào khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo thay vì khai thác tài nguyên hay lao động giá rẻ; lồng ghép các mục tiêu phát triển bền vững vào chiến lược kinh tế - xã hội; hoàn thiện thể chế thị trường định hướng XHCN với minh bạch và trách nhiệm giải trình cao; và phát huy vai trò khu vực tư nhân trong giám sát, phản biện chính sách.
Theo ông, chỉ khi đặt con người và môi trường ở trung tâm, Việt Nam mới dung hòa được hai mục tiêu tưởng như đối lập: tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững.
Từ những góc nhìn của hai chuyên gia, có thể thấy con đường để Việt Nam đạt mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045 không chỉ đòi hỏi tốc độ tăng trưởng ấn tượng, mà quan trọng hơn là nền tảng thể chế vững chắc, tư duy điều hành hiện đại và mô hình phát triển hài hòa giữa kinh tế, xã hội và môi trường. Khi cải cách thể chế đi đôi với đổi mới sáng tạo, và khi lợi ích của con người cùng môi trường được đặt ở trung tâm, Việt Nam hoàn toàn có thể biến những khát vọng hôm nay thành hiện thực của ngày mai.