“Chìa khóa” để Việt Nam bứt phá thành nước phát triển vào năm 2045
(NB&CL) Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung đến việc từng bước hoàn thiện và đang trở thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn gần đây đang bộc lộ nhiều hạn chế, khiến những mục tiêu tăng trưởng dài hạn trở nên khó hoàn thành.
Thực tiễn đó khiến nhiều chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần bước vào giai đoạn Đổi mới lần thứ 2, nhằm thực hiện mục tiêu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Liên quan đến vấn đề này, Ths Phạm Thành Công, Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới đã có cuộc trò chuyện cùng Báo Nhà báo và Công luận.

+ Ông từng nhận định rằng: Kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2025 phát triển chưa thật vững chắc, năng suất lao động chậm được cải thiện, đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng kinh tế còn thấp. Ông nhìn nhận như thế nào về những hạn chế trong mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay?
- Hiện nay, mô hình tăng trưởng của kinh tế Việt Nam, có 4 điểm nghẽn lớn, chúng ta cần phải nhìn nhận rõ.
Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư và số lượng lao động, chưa dựa nhiều vào tăng năng suất lao động, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng đang có xu hướng chậm lại, chất lượng tăng trưởng thấp. Phương thức phân bổ nguồn lực xã hội chưa có sự thay đổi rõ rệt; năng suất lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp còn thấp. Kinh tế vĩ mô ổn định nhưng chưa vững chắc, bội chi ngân sách còn lớn, nợ công tăng nhanh.
Thứ hai, việc thực hiện ba đột phá chiến lược chưa đạt mục tiêu đề ra. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được cải thiện; môi trường đầu tư, kinh doanh còn nhiều trở ngại. Việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ theo hướng hiện đại còn nhiều khó khăn. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Thứ ba, cơ cấu lại nền kinh tế triển khai chậm, thiếu đồng bộ, chưa thật sự gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Ví dụ, quá trình cơ cấu lại đầu tư chưa gắn với cơ cấu lại tài chính ngân sách nhà nước. Hoặc việc cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, xử lý nợ xấu gặp nhiều khó khăn, nợ xấu tiềm ẩn còn cao, an toàn hệ thống còn nhiều bất cập; thiếu cơ chế xử lý dứt điểm, triệt để nợ xấu.
Ngoài ra, đổi mới, sắp xếp lại và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chưa đạt yêu cầu, tỷ lệ vốn được cổ phần hoá thấp; quản trị doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém.
Thứ tư, cơ chế, chính sách điều phối phát triển vùng chưa đủ mạnh. Sự phát triển giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng còn thiếu tính liên kết, bị giới hạn bởi địa giới hành chính; chưa phát huy được các lợi thế cạnh tranh của từng địa phương và của toàn vùng.
+ Nguyên nhân do đâu, thưa ông?
- Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế này, ví dụ nhận thức và tầm nhìn của các cấp uỷ, chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng về đổi mới mô hình tăng trưởng chưa đầy đủ, có nơi còn bị ảnh hưởng bởi lợi ích cục bộ và tư duy nhiệm kỳ.
Một nguyên nhân khác đó là tính thượng tôn pháp luật chưa cao, kỷ luật, kỷ cương nhiều nơi chưa nghiêm. Một số quy định pháp luật còn chồng chéo, nhận thức và thực thi pháp luật còn khác nhau, khó thực hiện.
Thực tế, phương thức quản lý và đánh giá cán bộ còn bất cập, chưa có cơ chế phù hợp, hiệu quả để xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm, không hoàn thành nhiệm vụ. Công tác kiểm tra, giám sát, theo dõi, đôn đốc thực hiện trong thực thi công vụ ở một số cơ quan, đơn vị còn chưa nghiêm, nhất là ở cấp cơ sở. Chưa phát huy đầy đủ tiềm năng, năng lực của con người Việt Nam trong phát triển đất nước.
Ngoài ra, phương thức lãnh đạo quản lý kinh tế, quản lý xã hội trong thực tiễn nhiều nơi, nhiều lĩnh vực chưa thực sự phù hợp, hiệu lực, hiệu quả chưa cao; còn có biểu hiện “tư duy nhiệm kỳ”, “lợi ích nhóm”.
+ Thưa ông, một số ý kiến cho rằng, để hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam cần bước vào “giai đoạn Đổi mới lần thứ hai”. Ông nhìn nhận thế nào về quan điểm này và ông có khuyến nghị gì về mặt chính sách, nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong kỷ nguyên mới?
- Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII vào tháng 1/2021 đã nêu rất rõ: Đổi mới mô hình tăng trưởng. Cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh, bền vững. Đây là quan điểm mang tính định hướng chiến lược lâu dài của Đảng ta về đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Do vậy, để đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn mới, để Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tôi cho rằng chúng ta cần lưu ý vào 7 vấn đề cốt lõi.
Thứ nhất, Việt Nam cần tiếp tục ổn định và củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc; kiểm soát tốt lạm phát; đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế; cơ cấu lại thu, chi ngân sách nhà nước và nợ công theo hướng đảm bảo an toàn, bền vững; xử lý có hiệu quả, thực chất vấn đề nợ xấu của nền kinh tế gắn với cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, sẵn sàng xử lý dứt điểm các tổ chức tín dụng yếu kém.
Thứ hai, chúng ta cần tiếp tục thực hiện ba đột phá chiến lược. Mũi đột phá thứ nhất là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về cổ phần hoá, định giá doanh nghiệp nhà nước. Khắc phục tư tưởng bao cấp, xin - cho, ỷ lại.
Đồng thời, phát triển thị trường tài chính một cách cân bằng. Hoàn thiện thể chế quản lý đầu tư công, bảo đảm hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế. Có chính sách thu hút mạnh mẽ các nguồn lực trong xã hội.
Mũi đột phá thứ hai đó là tiếp tục phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại. Đẩy mạnh thực hiện các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công - tư, bảo đảm tính công khai, minh bạch; có cơ chế giám sát, quản lý và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư đối với từng dự án.
Mũi đột phá thứ ba đó là chú trọng phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng. Thực hiện tốt cơ chế, chính sách, pháp luật về phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ.
Thứ ba, đẩy mạnh cơ cấu lại tổng thể các ngành, lĩnh vực kinh tế trên phạm vi cả nước và từng địa phương, doanh nghiệp với tầm nhìn dài hạn, có lộ trình cụ thể; gắn kết chặt chẽ giữa cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế với cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực trọng tâm
Thứ tư, phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam cả về số lượng, chất lượng, thực sự là một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Trong đó, thúc đẩy hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện đại để làm nòng cốt, mũi nhọn phát triển kinh tế, cùng với sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước, nâng cao sức cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài.
Đặc biệt, tôi mong rằng Việt Nam đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giảm cơ bản gánh nặng chi phí đối với doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thứ năm, đổi mới cách thức liên kết, phối hợp giữa các địa phương trong phát triển kinh tế vùng; thực hiện có hiệu quả quá trình đô thị hoá. Trong đó, cần hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu lực thực thi các quy hoạch phát triển kinh tế vùng.
Thứ sáu, đổi mới phương thức, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước. Cụ thể, đổi mới phương thức quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng xây dựng nhà nước quản lý và phục vụ; tăng cường khả năng điều tiết, giám sát, kiểm tra và thanh tra; xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật.
Đặc biệt, chúng ta cần xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, liêm chính, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương của các cơ quan nhà nước và người đứng đầu.
+ Xin cảm ơn ông!