Câu chuyện truyền cảm hứng của những giáo viên dạy học nơi “thâm sơn, cùng cốc!”
(NB&CL) Dạy học là một nghề vất vả, dạy học miền núi lại vất vả hơn bội phần. Thế nhưng đã có những người thầy người cô từ bỏ phố thị, đồng bằng lên vùng cao dạy học và gắn bó với những điểm trường lẻ hàng chục năm trời. Câu chuyện dạy học của họ thực sự mang lại cho mỗi chúng ta những câu chuyện truyền cảm hứng, minh chứng cho quan điểm: “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình!”.
Rời Thủ đô đưa tiếng Anh lên vùng cao
Giáo dục miền núi nhiều năm nay đã được thay đổi, chất lượng giáo dục đi lên. Để có được những thành công như bây giờ, chính là nhờ công lao lớn của nhiều lớp giáo viên bỏ phố thị, bỏ quê hương để lên vùng cao dạy học. Câu chuyện của cô giáo Nguyễn Thị Yên (SN 1981) ở Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Nội và thầy Nguyễn Thanh Tuấn ở Trà Bình, Trà Bồng, Quảng Ngãi là những ví dụ điển hình.
Đến bây giờ, cô Nguyễn Thị Yên cũng khó để lý giải được vì đâu cô lại gắn bó với giáo dục Lai Châu lâu đến vậy. Với trình độ cử nhân Ngoại ngữ, cô Yên sẽ không khó để có một công việc tại Thủ đô. Ấy nhưng, cô Yên đã cùng chồng quyết định lên vùng cao Lai Châu dạy học.

Học sinh của cô Yên nhiều em đã đạt giải trong các kỳ thi Olympic Tiếng Anh cấp huyện và cấp tỉnh.
Mặc dù, dạy học tại Ngôi trường Bản Nậm Sảo 1, Trung Chải, Nậm Nhùn, Lai Châu nhưng suốt 14 năm trời cô luôn phải đi lại dạy học tại nhiều ngôi trường vì tình trạng thiếu giáo viên ngoại ngữ. “Hiện tại, giáo viên Tiếng Anh ở vùng cao đang thiếu. Đặc biệt giáo viên Tiếng Anh bậc tiểu học. Cả huyện Nậm Nhùn chỉ có 2 giáo viên. Chính vì thế, tôi phải cáng đáng thêm việc dạy Tiếng Anh tại nhiều trường học cùng một lúc” - cô Yên chia sẻ.
Khó thể đong đếm hết được những vất vả của chừng ấy năm lên vùng cao dạy học, bởi cô Nguyễn Thị Yên nhiều năm liền phải di chuyển giữa các trường. Những ngôi trường miền núi, gần nhau cũng phải tính đến hàng chục km. Nhưng đó chưa phải là điểm khó nhất đối với những “người lái đò” trên những đỉnh núi mù sương Lai Châu. “Học sinh chủ yếu là con em đồng bào dân tộc. Các em Tiếng Việt còn chưa sõi, nên để dạy Tiếng Anh đối với các em thử thách càng khó khăn hơn” – cô Yên kể.

Cô giáo Nguyễn Thị Yên cùng các học trò. Ảnh TL
Do thiếu giáo viên nên các tiết học môn Tiếng Anh cũng đều phải ghép 2 lớp dồn thành một, đòi hỏi giáo viên vừa phải có kỹ năng quản lý lớp vừa có phương pháp giảng dạy phù hợp để tất cả các em học sinh có thể tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng nhất. Trước những khó khăn đó, cô Yên càng tự thôi thúc mình không ngừng nỗ lực nghiên cứu những sáng kiến trong đổi mới phương pháp giảng dạy. Cô Yên tranh thủ buổi tối tham gia các khóa học ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng các phần mềm thông minh hỗ trợ dạy Tiếng Anh để nâng cao nghiệp vụ, chuyên môn.

Lớp học Tiếng Anh của cô Yên.
Những nỗ lực đó của cô Yên được đền đáp xứng đáng khi cô giành được nhiều bằng khen, giải thưởng vì có nhiều sáng kiến, kinh nghiệm trong dạy học. Nhiều học trò của cô đạt giải cao trong các kỳ thi, học sinh của cô Yên nhiều em đã đạt giải trong các kỳ thi Olympic Tiếng Anh cấp huyện và cấp tỉnh.
Nói về mong muốn của mình, cô Yên chia sẻ: “Giáo dục vùng cao nay đã bớt khó khăn hơn trước rất nhiều. Tôi mong rằng, sẽ có nhiều giáo viên Tiếng Anh vùng xuôi tình nguyện lên vùng cao dạy học. Để học sinh vùng cao có điều kiện học Tiếng Anh, cũng đỡ đần công sức cho giáo viên như tôi không còn phải đi dạy học một lúc nhiều trường” – cô Yên chia sẻ.
Dạy học vùng cao khó khăn là thế nhưng cũng mang lại cho cô nhiều niềm vui. Tâm sự với phóng viên, cô Yên chia sẻ, cô nghĩ đơn giản lắm, ở đâu không quan trọng, miễn là có vợ chồng cùng chia sẻ. Và quan trọng là giá trị mình trao cho các em nhỏ nơi đây, chúng quá vất vả và thiệt thòi. “Từ trước đến giờ tôi dạy thêm học sinh vào các ngày cuối tuần nhưng chưa bao giờ thu tiền của các em. Tôi dạy hoàn toàn miễn phí” – cô Yên kể.
Hiện cô có một tổ ấm hạnh phúc, cả hai vợ chồng đều là giáo viên, chồng cô Yên cũng là giáo viên ngoại ngữ bậc THCS. Dạy học vùng cao mỗi khi trời mưa gió, việc đi lại khó khăn, đường trơn, đá lở là những ám ảnh thường trực khiến những giáo viên như cô Yên luôn lo lắng, sợ hãi. Tuy nhiên, tình yêu nghề đã giúp họ chiến thắng nỗi sợ đó để gắn bó lâu dài với giáo dục vùng cao.
28 năm dạy học nơi thâm sơn, cùng cốc
Nếu cô Nguyễn Thị Yên có 14 năm rời Thủ đô để đưa Tiếng Anh đến với học sinh miền núi Lai Châu, thì thầy Nguyễn Thanh Tuấn (SN 1975 - Trà Bình, Trà Bồng, Quảng Ngãi) lại có tới 28 năm dạy học ở huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi.
Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Tiểu học và THCS Trà Bùi đóng trên địa bàn xã khó khăn, nơi thầy Tuấn dạy học lại càng khó khăn hơn bởi đó là điểm lẻ (ở thôn Nước Nia) cách điểm trường chính 55km. Để vào được điểm trường này, thầy Tuấn phải vượt qua nhiều đoạn dốc núi cheo leo, ngoằn ngoèo, luôn tiềm ẩn nguy cơ sạt lở trong mùa mưa lũ. Những tháng mùa đông mưa gió, sạt lở thầy Tuấn phải ở lại có khi tới gần 2 tháng, nhưng bằng lòng yêu nghề và đặc biệt là sự yêu thương dành cho những học trò người Co nơi đây nên thầy Tuấn đã gắn bó với điểm trường lẻ xa xôi này gần 24 năm.
Theo thầy Tuấn, việc gắn bó dạy học tại điểm trường lẻ nằm giữa núi rừng miền Trung là một hành trình rất dài. “Đường dốc đá trơn trượt vào mùa mưa, những đoạn đường tiềm ẩn nguy cơ xảy ra sạt lở đất, đá lăn nguy hiểm, những con suối tiềm ẩn nguy cơ xảy ra lũ quét, lũ cuốn,… Có những lúc nước suối lớn chúng tôi phải đi bộ hơn 20 cây số đường đất để đến được điểm trường” – thầy Tuấn kể.

Thầy Nguyễn Thanh Tuấn tận tình dạy dỗ các học sinh miền núi tỉnh Quảng Ngãi.
Cũng theo thầy Tuấn, nhiều lần nhà trường phân công thầy dạy ở điểm trường trung tâm nhưng rồi thầy phải tình nguyện đi vì thầy không nhận thì các cô giáo trẻ khác phải đi. “Không lẽ mình đàn ông con trai lại “chọn việc nhẹ nhàng”, đẩy phần việc khó khăn cho các giáo viên nữ”, thầy Tuấn tâm sự.
Nói về vất vả, chắc khó thể đong đếm cho hành trình dạy học nơi “thâm sơn cùng cốc” giữa đại ngàn Đông Trường Sơn của thầy Tuấn. Vì điểm trường không có nhà công vụ, chỗ ở, sinh hoạt bấy nhiêu năm thầy giáo Tuấn chỉ đơn giản là kê bàn ghế ở nơi góc lớp để ngủ. Thật khó để hình dung, trong điều kiện như vậy mà thầy Tuấn đã vượt qua được chừng ấy năm trời để mang cái chữ đến cho học sinh nghèo nơi đây.

Thầy Tuấn đã vượt qua rất nhiều khó khăn vất vả để mang cái chữ đến cho học sinh nghèo miền núi tỉnh Quảng Ngãi.
Còn bất ngờ hơn, con gái thầy Tuấn làm giáo viên, cũng đã tình nguyện về điểm trường nơi cha dạy học. Có con gái về dạy học cùng thầy Tuấn cũng vui hơn. Một sự tiếp nối sự nghiệp trồng người của hai cha con thầy Tuấn nơi núi rừng Trường Sơn thực sự gây xúc động lớn.


Thầy Tuấn chơi thể thao cùng các học sinh.
Câu chuyện dạy học của cô giáo Nguyễn Thị Yên và thầy Nguyễn Thanh Tuấn cho thấy, để có một nền giáo dục phát triển toàn diện, để học sinh nơi vùng sâu, vùng xa cũng được học tập bài bản là cả một sự nỗ lực lớn lao của cả hệ thống chính trị. Trong đó, vai trò của những người thầy, người cô rất quan trọng. Những câu chuyện vượt khó, vươn lên của các nhà giáo như cô Yên, thầy Tuấn thực sự là những câu chuyện truyền cảm hứng, minh chứng sinh động nhất cho câu nói: “Nghề giáo là nghề cao quý nhất”.
Trinh Phúc