Giáo sư Trần Thọ Đạt: “Để phát triển lên tầm cao hơn, cần chuyển đổi mô hình kinh tế bài bản”
(NB&CL) Sau 80 năm độc lập, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến lớn, chuyển mình và phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, trao đổi với Báo Nhà báo và Công luận, Giáo sư Trần Thọ Đạt - Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, để phát triển lên tầm cao hơn, Việt Nam phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng một cách bài bản, có nền tảng, có quyết tâm chính trị cao và sự đồng thuận toàn xã hội.
+ Thưa giáo sư, 80 năm qua, kể từ ngày Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 đến nay, nước ta đã có những bước chuyển nhiệm màu và những thành tựu mà nền kinh tế Việt Nam đã đạt được là rất to lớn. Trong đó theo ông đâu là những thành tựu mang tính lịch sử?
- Trong hành trình 80 năm phát triển, kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu mang tính lịch sử, đánh dấu các bước chuyển đổi nhiệm màu qua từng giai đoạn. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tự cung tự cấp, bị tàn phá bởi chiến tranh, Việt Nam đã từng bước phục hồi, đổi mới và hội nhập để trở thành một nền kinh tế thị trường năng động, có độ mở cao, quy mô ngày càng lớn và vị thế ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế.

Một trong những dấu ấn lớn nhất là công cuộc Đổi mới từ năm 1986, mở đầu cho quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức cao trong nhiều năm liền, đưa Việt Nam thoát khỏi đói nghèo diện rộng và trở thành nước có thu nhập trung bình vào năm 2008. Tính đến năm 2024, quy mô GDP đã vượt mốc 430 tỷ USD, đứng thứ 5 Đông Nam Á và thứ 38 thế giới. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 1990-2020 đạt khoảng 6,5–7%/năm, một trong những mức cao nhất thế giới.
Cùng với tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã đạt những tiến bộ vượt bậc về xóa đói giảm nghèo, phát triển con người và hội nhập quốc tế. Tỷ lệ nghèo đa chiều giảm mạnh; tuổi thọ, trình độ học vấn và chỉ số phát triển con người (HDI) đều được cải thiện đáng kể. Việt Nam trở thành thành viên năng động trong nhiều tổ chức quốc tế, ký kết và thực thi 17 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, khẳng định vị thế là mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Thành tựu của 80 năm qua là kết quả của sự kiên định đường lối phát triển đúng đắn, tinh thần vượt khó, sáng tạo của nhân dân và sự điều hành linh hoạt, đổi mới của Đảng và Nhà nước. Đây là nền tảng vững chắc để Việt Nam tiếp tục vươn lên mạnh mẽ trong giai đoạn phát triển tiếp theo.
+ Trong suốt những thập kỷ đó, Việt Nam phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng một cách bài bản, có nền tảng. Giờ đây, chúng ta đang tiến hành tổng kết Nghị quyết 05-NQ/TW và đề xuất mô hình tăng trưởng phù hợp với bối cảnh mới. Vậy theo ông, nội hàm của “mô hình tăng trưởng mới” sẽ như thế nào?
- Nói một cách ngắn gọn, nội hàm của mô hình tăng trưởng mới là phải “Khác biệt để Bứt phá”. Mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam trong giai đoạn 2026-2030, định hướng đến 2045, không chỉ là sự tiếp nối mà là bước chuyển căn bản về chất. Nếu trước đây, tăng trưởng chủ yếu dựa trên vốn đầu tư, lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên và lợi thế nhân công, thì mô hình mới phải dựa vào chất lượng thể chế, hàm lượng công nghệ, năng suất và sáng tạo. Trọng tâm của mô hình này là khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, với kinh tế số và dữ liệu số là động lực chủ đạo tạo ra lực lượng sản xuất mới. Tuy nhiên, điều cốt lõi nằm ở chỗ Việt Nam không chỉ ứng dụng công nghệ mà phải chủ động làm chủ và tạo ra công nghệ, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo nội sinh, nâng cao năng lực thích ứng và sáng tạo của từng doanh nghiệp, từng ngành kinh tế.

Ngoài ra, mô hình tăng trưởng mới phải mang những đặc trưng khác biệt so với các giai đoạn trước: Thứ nhất: Tăng trưởng hướng tới chất lượng sống và phát triển bền vững, lấy con người làm trung tâm, bao trùm và không ai bị bỏ lại phía sau; Thứ hai: Kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng xanh - số - tuần hoàn, bảo đảm sự phát triển không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng; Thứ ba: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều sâu và tích hợp vào chuỗi giá trị toàn cầu, với mục tiêu thoát khỏi vị trí lắp ráp, hướng tới làm chủ công nghệ và thiết kế; Thứ tư: Tái cấu trúc thể chế, nâng cao năng lực nhà nước kiến tạo và điều phối phát triển, bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, minh bạch, thúc đẩy doanh nghiệp sáng tạo. Nói cách khác, mô hình tăng trưởng mới không chỉ là lựa chọn phát triển mà còn là điều kiện tiên quyết để Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và hiện thực hóa khát vọng trở thành nước phát triển vào năm 2045.
+ Những ngành, lĩnh vực nào cần đặc biệt thúc đẩy để chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng? Trong đó, Nhà nước cần có vai trò như thế nào trong định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực, nhất là đối với các ngành công nghiệp, công nghệ ưu tiên, chiến lược, thưa Giáo sư?
- Để chuyển đổi thành công mô hình tăng trưởng, Việt Nam cần ưu tiên phát triển các ngành, lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, sử dụng công nghệ tiên tiến, có khả năng lan tỏa mạnh mẽ và đóng vai trò trụ cột trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy mạnh mẽ các ngành công nghệ - số - xanh và tri thức. Đồng thời phát huy vai trò định hướng, dẫn dắt và kiến tạo của Nhà nước để tạo hệ sinh thái phát triển bền vững, năng động và đổi mới.
Tôi cho rằng có ba nhóm ngành then chốt cần được đặc biệt thúc đẩy là:
Công nghiệp công nghệ cao và công nghiệp nền tảng, bao gồm sản xuất vi mạch, linh kiện điện tử, công nghệ vật liệu mới, thiết bị y sinh, robot, và các ngành công nghiệp số (AI, IoT, dữ liệu lớn, blockchain...). Đây là các lĩnh vực có khả năng tích hợp đổi mới sáng tạo, tạo động lực tăng năng suất, nâng cấp chuỗi giá trị và giúp Việt Nam giảm phụ thuộc vào gia công, lắp ráp.
Kinh tế số và dịch vụ tri thức, đặc biệt là thương mại điện tử, fintech, logistics thông minh, công nghệ giáo dục và y tế số. Những ngành này không chỉ mang lại tốc độ tăng trưởng nhanh mà còn tạo nhiều việc làm chất lượng cao, thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và thu hút nguồn vốn đầu tư quốc tế.
Kinh tế xanh và công nghiệp sinh thái, bao gồm năng lượng tái tạo, công nghệ môi trường, nông nghiệp thông minh, kinh tế tuần hoàn và các mô hình sản xuất xanh. Đây là hướng đi bắt buộc để Việt Nam thực hiện cam kết phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu và tạo lợi thế cạnh tranh mới trong thương mại quốc tế.
Trong quá trình phát triển các ngành ưu tiên, vai trò của Nhà nước là thiết yếu và mang tính kiến tạo chiến lược. Trước hết, Nhà nước cần xây dựng các quy hoạch định hướng ngành chiến lược tầm dài hạn, gắn với chuyển dịch vùng kinh tế, đảm bảo tính liên kết giữa hạ tầng - công nghiệp - đô thị - nhân lực. Tiếp nữa là cần có các chính sách ưu đãi và đầu tư công dẫn dắt, đặc biệt là hạ tầng số, logistics, trung tâm R&D và cụm liên kết ngành. Đồng thời, Nhà nước phải giữ vai trò là “người điều phối thị trường” trong các ngành còn non trẻ, bằng cách hỗ trợ tiêu chuẩn hóa, bảo hộ sáng chế, ươm mầm doanh nghiệp khởi nghiệp và xúc tiến thương mại công nghệ cao.
+ Xin cảm ơn Giáo sư!