Đời sống văn hóa

Văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau năm 1975: Thách thức mới và cơ hội hồi sinh các giá trị quá khứ

T.Toàn 23/10/2025 10:40

(NB&CL) Nửa thế kỷ sau ngày đất nước thống nhất, việc nghiên cứu, sưu tầm, giới thiệu các tác phẩm văn hóa, văn nghệ dân gian đã có những thành tựu rực rỡ. Tuy nhiên, trong thời đại công nghệ số và hội nhập, cơ hội và thách thức đan xen, văn hóa dân gian sẽ tồn tại như thế nào, đó là một câu hỏi lớn…

Di sản văn hóa dân gian trở lại trong đời sống

Hội thảo “Văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (1975-2025)” do Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam tổ chức mới đây đã cho thấy một bức tranh sinh động về hành trình 50 năm bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân gian.

Theo GS.TS. Lê Hồng Lý, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, các hoạt động văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau năm 1975, phát triển mạnh mẽ, cả trong công tác sưu tầm, phổ biến và truyền dạy. Tiêu biểu là dự án “Công bố, phổ biến tài sản văn hóa văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam”, đã thu thập lượng dữ liệu bản thảo cần xem xét lên tới hơn 2.500 tác phẩm; đã có hơn 2.000 đơn vị thụ hưởng thành quả của dự án... Ngoài ra, nhiều dự án nhỏ khác nhằm nghiên cứu, phục dựng những di sản văn hóa dân gian có nguy cơ bị mai một đã được triển khai.

Bên cạnh đó, chỉ tính từ năm 2003 đến hết tháng 6/2025, đã có 789 nghệ nhân dân gian - những báu vật nhân văn sống được vinh danh. Đặc biệt, trong số các di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh và 655 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đều có sự đóng góp bằng cách này hay cách khác của hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.

“Nhiều di sản văn hóa dân gian đã được sưu tầm, khôi phục, được ghi chép lại và được thực hành trong đời sống. Có những di sản ngày xưa từng bị coi là mê tín dị đoan, nhưng đến nay lại trở thành di sản văn hóa thế giới như tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt; việc sưu tầm được một kho tàng sử thi Tây Nguyên vô cùng lớn sau chiến tranh, được cả thế giới khâm phục; chúng ta sưu tầm, phục dựng được những di sản văn hóa dân gian trên khắp mọi miền đất nước…”, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam cho biết.

1(2).jpg
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2016.

GS.TS. Lê Hồng Lý khẳng định, hoạt động của những người làm công tác văn hóa, văn nghệ dân gian đã góp phần to lớn vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, từ đó góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đóng góp vào công cuộc chấn hưng đất nước, đưa văn hóa Việt Nam ra nước ngoài, tạo nên sự đa dạng văn hóa như Công ước 1972 của UNESCO đề ra.

Lớp trẻ sẽ tìm về những giá trị văn hóa của dân tộc

Tuy nhiên, do ảnh hưởng của quá trình hội nhập quốc tế, các làng quê đang dần bị đô thị hóa, không gian để văn hoá, văn nghệ dân gian phát triển đang dần bị thu hẹp. Nhiều phong tục, tập quán và di sản văn hóa dân gian (từ nghi thức tín ngưỡng, lễ hội, đến dân ca, dân vũ)… đứng trước nguy cơ mai một. Bên cạnh đó, trong thời đại công nghệ thông tin và hội nhập, trí tuệ nhân tạo đang mở ra những định hướng nghiên cứu mới, cung cấp phương pháp nghiên cứu và công cụ nghiên cứu mới… Đây là những vấn đề mới đặt ra trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa, văn nghệ dân gian.

2(1).jpg
Tục tung kiệu, chạy ói tại Lễ hội Đền Cờn, tỉnh Nghệ An.

“Đô thị hóa khiến các làng dần biến mất; hội nhập quốc tế, văn hóa ngoại lai tràn vào làm đời sống thay đổi, văn hóa thay đổi làm mất đi các giá trị của văn hóa dân gian. Trong thời đại internet toàn cầu và mạng xã hội, mỗi người ôm một cái điện thoại; họ không còn ăn cơm chung, không còn lời ru, không còn nghi lễ, các phong tục tập quán, giỗ Tết không còn được như xưa nữa. Trong bối cảnh ấy, văn hóa dân gian sẽ tồn tại như thế nào, đó là những câu hỏi rất lớn”, GS.TS. Lê Hồng Lý nói.

Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam nhấn mạnh, thực tiễn đó đang đặt ra trách nhiệm lớn lao cho những người làm công tác sưu tầm, nghiên cứu và bảo tồn di sản văn hoá, văn nghệ dân gian, cũng như trách nhiệm của những nhà quản lý trong việc hoạch định, xây dựng chính sách, làm sao để vừa có thể bảo tồn, gìn giữ được giá trị di sản, vừa đưa di sản lan toả đến với cộng đồng.

Tại hội thảo, nhiều đại biểu cũng cho rằng, việc bảo tồn, phát huy văn hóa dân gian Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức và cả những cơ hội. Theo GS.TS. Nguyễn Chí Bền - nguyên Viện trưởng Viện Văn hoá, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam, công nghệ đã khiến công tác sưu tầm nghiên cứu văn hóa dân gian phải thay đổi, do đó chúng ta cần mở rộng và tiếp thu cách làm mới của các nước trong khu vực và thế giới.

“Chúng ta không thể đi điền dã, ghi chép tư liệu với tờ giấy và cây bút, rồi tập hợp để đưa về in thành sách được nữa mà phải nghĩ đến số hóa những dữ liệu đó. Vì vậy, tôi cho rằng đây vừa là thời cơ, vừa là thách thức cho việc nghiên cứu văn hóa dân gian”, ông Bền nói.

GS.TS. Nguyễn Chí Bền cho biết thêm, từ năm 1997, Bộ Văn hóa - Thông tin đã xây dựng ngân hàng dữ liệu di sản văn hóa phi vật thể 54 dân tộc với 4 loại sản phẩm: bản text, bản ghi âm, bản ghi hình, hình ảnh. Từ nền tảng đó, chúng ta rất cần xây dựng ngân hàng dữ liệu về văn hóa, nhằm quảng bá thành tựu nghiên cứu văn hóa dân gian, không chỉ trong nước mà cả quốc tế.

3(1).jpg
Nghi thức rước trong lễ hội làng Giá, Hà Nội.

Một số đại biểu cũng cho rằng, trong thời đại số, mạng xã hội truyền tin rất nhanh cũng như sự biến dạng của văn hóa dân gian sẽ đem đến thách thức mới. Bởi vậy, bản thân người sưu tầm, nghiên cứu cần đổi mới cách thức, phương pháp, coi mình như thành viên của cộng đồng, tránh hiện tượng giả văn hóa dân gian (fake folklore), chú ý đến các phương tiện nghiên cứu, vấn đề bản quyền...

Đáng mừng là gần đây đã xuất hiện một số tín hiệu tích cực trong việc giới thiệu, lan tỏa văn hóa, văn nghệ dân gian. GS.TS. Lê Hồng Lý đưa ra ví dụ, trong lĩnh vực âm nhạc, đã có một số ca sĩ trẻ đưa văn hóa dân gian vào các tác phẩm âm nhạc hiện đại như trường hợp BắcBling của Hòa Minzy và mới đây là ca sĩ Đức Phúc, hay trước đó là những chương trình thực cảnh ở chùa Thầy, ở Hội An…

Theo ông, những người trẻ đã biết khai thác văn hóa dân gian vào các tác phẩm hiện đại và đã thu được thành công lớn. Họ là những người vừa góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, vừa đóng vai trò quảng bá, lan tỏa văn hóa Việt trong đời sống đương đại.

4(1).jpg
MV “BắcBling” của Hòa Minzy tiêu biểu cho xu hướng kết hợp giữa văn hóa dân gian và âm nhạc đương đại.

GS.TS. Lê Hồng Lý nhấn mạnh thêm, khi đất nước ta hòa nhập với thế giới thì chúng ta phải thể hiện được là người Việt Nam. Mà muốn làm được điều đó thì phải giữ được văn hóa Việt Nam. Đồng thời, trước sự mai một của văn hóa dân gian, ông khá lo ngại nhưng vẫn tin tưởng lớp trẻ sẽ có cách nhìn mới, sẽ tìm về những giá trị văn hóa của dân tộc.

“Sang bên Tây Âu, bên Mỹ thì chúng ta và người Trung Quốc không khác gì nhau cả. Để phân biệt Vietnamese Americans hay Chinese Americans thì chỉ có văn hóa. Mà cái làm nên sự khác biệt chính là văn hóa dân gian chứ không phải văn hóa hiện đại, vì vậy giá trị của văn hóa dân gian sẽ mãi trường tồn”, GS.TS. Lê Hồng Lý nhận định.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Văn hóa, văn nghệ dân gian Việt Nam sau năm 1975: Thách thức mới và cơ hội hồi sinh các giá trị quá khứ
        • Mặc định

        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO