Kinh tế vĩ mô

Thu hút đầu tư vào khởi nghiệp sáng tạo: Phát huy nguồn lực trí tuệ từ nhân dân

Thế Anh (Thực hiện) 20/06/2025 08:00

(NB&CL) Nghị quyết số 57-NQ/TW vừa được Bộ Chính trị ban hành đã xác định đổi mới sáng tạo là “động lực chủ yếu” của tăng trưởng nhanh và bền vững. Việt Nam hiện được đánh giá là có sức hút lớn trong việc thu hút đầu tư vào các lĩnh vực đổi mới sáng tạo... Tuy nhiên hành trình khai mở những tiềm năng này còn nhiều điểm nghẽn.

Mở lối cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

Đổi mới sáng tạo hiện không chỉ là động lực tăng trưởng mà còn là chìa khóa để mỗi quốc gia khẳng định vị thế trong nền kinh tế toàn cầu. Chúng ta đang chứng kiến làn sóng đầu tư chưa từng có vào các lĩnh vực công nghệ cao và đổi mới sáng tạo. Thủ tướng Phạm Minh Chính từng nhấn mạnh, người dân và doanh nghiệp mới là chủ thể chính của tiến bộ công nghệ, Nhà nước không thể làm thay. Vậy mở lối cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo thế nào để phát huy hết tiềm năng phát triển? Nhà báo & Công luận có loạt bài viết xoay quanh vấn đề này.

Liên quan tới vấn đề này, Phóng viên Báo Nhà báo và Công luận đã có cuộc trao đổi với ông Phạm Đức Nghiệm - Phó Cục trưởng Cục Khởi nghiệp và doanh nghiệp khoa học công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) để làm rõ hơn vai trò của đổi mới sáng tạo trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, cũng như nhận diện những rào cản, điểm nghẽn và những điều kiện cần thiết để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế.

+ Thưa ông, đổi mới sáng tạo có vai trò như thế nào trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay?

- Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Tỷ trọng kinh tế số chiếm khoảng 30% GDP. Đặc biệt, đổi mới sáng tạo nằm trong top 40 quốc gia theo xếp hạng GII (chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu).

Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Nền kinh tế phát triển dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và kinh tế số. Doanh nghiệp Việt Nam có năng lực cạnh tranh toàn cầu, đóng vai trò chủ đạo trong chuỗi giá trị toàn cầu.

1668568688594_image001.jpg

Để đạt được mục tiêu như trên, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trong nhiều phát biểu gần đây đã nhấn mạnh, phấn đấu đưa tăng trưởng kinh tế đạt mức 2 con số trong thời gian tới, đặc biệt là giai đoạn đến năm 2030, nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và vươn lên trở thành nước công nghiệp phát triển.

Tuy nhiên dư địa phát triển truyền thống như lao động giá rẻ, tài nguyên thiên nhiên,... đã đến giới hạn nhất định. Do đó nếu muốn bứt phá, vươn lên một tầm cao mới, không còn con đường nào khác ngoài khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, cùng với khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo sẽ giúp nâng cao năng suất, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ.

Tại Nghị quyết 57-NQ/TW (Nghị quyết 57) về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Bộ Chính trị cũng đã xác định rõ ràng đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là nhiệm vụ quan trọng để phát triển kinh tế đất nước trong kỷ nguyên vươn mình.

Đây là một định hướng đúng đắn và mang tính chiến lược. Đổi mới sáng tạo không chỉ là lựa chọn, mà là con đường tất yếu nếu chúng ta muốn vượt qua ngưỡng thu nhập trung bình và hướng tới tăng trưởng bền vững, với tốc độ cao hơn trong giai đoạn tới.

+ Theo ông, Việt Nam có lợi thế gì trong cuộc đua khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo?

- Tôi cho rằng, Việt Nam hiện nay đang có nhiều lợi thế. Một trong những lợi thế đó, chính là việc chúng ta đang sống ở thời đại công nghệ bùng nổ, ngày càng nhiều công nghệ mới, hiện đại được ra đời. Tuy nhiên, để hấp thụ” được những công nghệ đó, Việt Nam cần một điều kiện cần thiết đó chính là năng lực của người Việt.

Trong 4 năm liên tiếp, chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam liên tục thăng hạng. Riêng chỉ số năng lực sáng tạo của người Việt luôn thuộc nhóm Top 10 thế giới, điều này chứng minh rằng năng lực sáng tạo của người Việt rất cao, đây chính là nguồn tài nguyên trí tuệ quý giá nếu biết cách khai thác và phát huy sẽ giúp đất nước đi lên trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình.

Ông Phạm Đức Nghiệm, Phó Cục trưởng Cục Khởi nghiệp và doanh nghiệp khoa học công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ).Ảnh.TL 1
Ông Phạm Đức Nghiệm, Phó Cục trưởng Cục Khởi nghiệp và doanh nghiệp khoa học công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ). Ảnh: TL

+ Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo thường được coi là “sân chơi” của giới chuyên gia, nhà khoa học. Quan điểm của ông về điều này?

- Trước đây, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo chủ yếu được hiểu là công việc của các nhà khoa học, viện nghiên cứu, trường đại học. Tuy nhiên điểm mới rất đáng chú ý của Nghị quyết 57 đó là mở rộng ra khái niệm đổi mới sáng tạo sang toàn dân.

Thực tế cho thấy, có rất nhiều sáng tạo, sáng chế của người dân mang lại hiệu quả kinh tế rất lớn. Ví dụ, trong lĩnh vực cơ giới hóa nông nghiệp, nhiều máy móc thiết bị chuyên dụng cho sản xuất nông nghiệp không phải do viện nghiên cứu hay trường đại học tạo ra, mà từ các “nhà sáng chế chân đất”...

Đơn cử, máy gặt đập liên hợp xay xát gạo cơ khí Bùi Văn Vỏ, sản phẩm này không chỉ giúp chuyên nghiệp hóa sản xuất nông nghiệp, mà còn được xuất khẩu sang Thái Lan và nhiều nước khác, được đánh giá là số 1 thế giới trong lĩnh vực thu hoạch và chế biến gạo.

Hay như sáng chế máy gieo hạt của ông Phạm Văn Hát ở Hải Dương, người không có trình độ học vấn cao nhưng lại có những sáng tạo tuyệt vời, sản phẩm được bán sang Nhật, Úc…

Chúng ta không thể phủ nhận vai trò của các nhà khoa học chuyên nghiệp, nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nhưng cũng cần ghi nhận tiềm năng to lớn sáng tạo từ nhân dân, đây là nguồn tài nguyên to lớn mà chúng ta cần có chính sách vượt trội để khai thác.

Tổng kết kinh nghiệm quốc tế cho thấy, những phát minh sáng chế mang tính chất nền tảng, lâu dài làm thay đổi thế giới thường thuộc về các nhà khoa học - nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, những sáng kiến sáng tạo nhỏ nhưng lại đem lại giá trị kinh tế lớn lại thuộc về những nhà kinh tế không chuyên.

+ Để hỗ trợ sáng tạo toàn dân, cần những điều kiện gì, thưa ông?

- Khi Nghị quyết 57 được thực hiện sẽ có rất nhiều cuộc thi, hoạt động sáng tạo toàn dân được triển khai rộng khắp. Đồng thời sẽ xuất hiện nhiều sản phẩm sáng tạo từ nông dân.

w_z4688779880370_f619b287246890b668f27986adcb5d62.jpg
"Robot đặt hạt" do anh Phạm Văn Hát sáng chế hoạt động trên cánh đồng Gia Lộc (Hải Dương).

Các nước trên thế giới đã thực hiện việc này rất thành công, và chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng để biến tri thức của người Việt thành nguồn tài nguyên quý giá, đóng góp trực tiếp cho cuộc sống.

Bình thường, độ trễ của nghiên cứu khoa học để ra sản phẩm thực tiễn có thể lên tới 5 - 10 năm. Nhưng với những sáng tạo xuất phát từ thực tiễn sản xuất, thời gian ứng dụng nhanh hơn rất nhiều.

Bên cạnh việc truyền tải tinh thần của Nghị quyết 57 vào các văn bản pháp luật hiện hành, Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đang tích cực cụ thể hóa nội dung của Nghị quyết vào Luật Khoa học và Công nghệ, cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành. Đồng thời, cần đảm bảo nguồn lực, không chỉ về tài chính mà còn về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật.

Ví dụ, khi người dân có ý tưởng sáng tạo và demo (thử nghiệm) ra sản phẩm, họ cần có phòng thí nghiệm, xưởng sản xuất để kiểm định chất lượng. Tới đây, sẽ có những cơ sở vật chất dùng chung, giúp người dân kiểm tra, đánh giá, thử nghiệm, từ đó biến ước mơ thành hiện thực, phát huy tài năng và trí tuệ.

Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước triển khai gói tín dụng 500.000 tỷ đồng dành cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Khi gói tín dụng này đi vào thực tiễn, nông dân, hộ sản xuất sẽ có thể tiếp cận nguồn vốn để triển khai các sản phẩm khoa học công nghệ.

+ Vậy trước khi có Nghị quyết 57, đâu là những rào cản chính, thưa ông?

- Trước khi có Nghị quyết 57, chúng ta phải đối mặt với cả “một rừng” rào cản, riêng vấn đề chuyển giao công nghệ từ nghiên cứu ra thị trường đã bị hơn 10 Luật khác nhau chặn lại, dẫn đến việc các kết quả nghiên cứu không thể đưa ra thị trường.

Cá biệt, nhiều tổ chức khoa học công nghệ ký hợp đồng chuyển giao với doanh nghiệp nhưng không thể thực hiện, dẫn đến việc kết quả nghiên cứu phải dừng lại.

Vì vậy, Nghị quyết 57 là một tư tưởng chỉ đạo quan trọng, làm căn cứ để đồng bộ hóa và hoàn thiện thể chế, từ đó sẽ thúc đẩy sửa đổi các luật liên quan như Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Tài sản công, Luật Đầu tư… Đó là chưa kể các Thông tư, Nghị định khác nhau.

+ Song hành cùng Nghị quyết 57, vừa qua Bộ Chính trị còn ban hành Nghị quyết 68-NQ/TW (Nghị quyết 68) về phát triển kinh tế tư nhân. Trong Nghị quyết 68, Bộ Chính trị cũng dành nhiều cơ chế ưu đãi cho doanh nghiệp khi đầu tư vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; đặc biệt là nhóm doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Theo ông, Nghị quyết 57 và Nghị quyết 68 mang lại cơ hội gì cho doanh nghiệp?

- Rõ ràng, đây là một thời cơ mới, một vận hội mới của đất nước. Doanh nghiệp là một chủ thể trong xã hội, không chỉ vì lợi nhuận mà còn có vai trò đóng góp vào sự phát triển chung. Việc thể chế được đồng bộ hóa, rào cản pháp lý được tháo gỡ, chính sách được thiết lập phù hợp với thực tiễn là những điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp phát triển.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, đây lại là cơ hội cho Việt Nam vươn mình, tái cấu trúc nền kinh tế và tạo ra thế hệ doanh nhân mới. Nếu nắm bắt được, đây là thời cơ vàng, cơ hội hiếm có.

Chưa bao giờ việc ứng dụng công nghệ, đặc biệt là công nghệ số, AI, lại dễ dàng và hiệu quả như hiện nay. Chỉ riêng AI đã giúp tăng hiệu suất từ 20–30%. Tuy nhiên, nếu không chủ động thay đổi, doanh nghiệp sẽ bị bỏ lại rất xa và tôi cho rằng đây vừa là cơ hội nhưng cũng là thách thức.

+ Một số ý kiến cho rằng, các doanh nghiệp Việt Nam chưa “nắm” được công nghệ lõi. Đối với riêng doanh nghiệp công nghệ “made in Việt Nam” mới chỉ làm gia công là chủ yếu, theo ông, nhận định này có đúng không?

- Xét về mô hình phát triển công nghệ, thế giới thường chia quá trình phát triển của một quốc gia thành ba giai đoạn. Giai đoạn 1 là bắt chước công nghệ, giai đoạn 2 là hấp thụ và làm chủ công nghệ, giai đoạn 3 là sáng tạo công nghệ.

Nhìn vào tổng thể, Việt Nam hiện nay đang ở cuối giai đoạn bắt chước công nghệ, bắt đầu tiến tới giai đoạn hấp thụ và làm chủ. Cá biệt, ở một số lĩnh vực, chúng ta đã tiệm cận giai đoạn sáng tạo công nghệ. Ví dụ như ngành viễn thông, công nghệ thông tin của Việt Nam đã tiệm cận với trình độ thế giới.

Như vậy, không phải toàn bộ các lĩnh vực ở Việt Nam đều chỉ dừng lại ở học hỏi hay sao chép, một số ngành đã đi trước, làm chủ và bắt đầu sáng tạo. Tất nhiên, vẫn còn những ngành đang chủ yếu dừng ở mức bắt chước, nhưng đã có nhiều lĩnh vực mà doanh nghiệp Việt đã thực sự làm chủ công nghệ và bước vào giai đoạn sáng tạo.

Điều quan trọng là phải nhìn nhận bức tranh một cách đa chiều, theo từng ngành, từng lĩnh vực, chứ không nên đánh đồng hay phủ nhận nỗ lực làm chủ công nghệ của các doanh nghiệp Việt.

Một vấn đề khác được quan tâm là câu chuyện “chảy máu chất xám”. Chúng ta cần nhìn nhận một cách khách quan rằng việc các chuyên gia, nhân tài Việt Nam ra nước ngoài làm việc là xu hướng bình thường trong một thế giới hội nhập.

Trên thực tế từ năm 1995, Trung Quốc đã có chiến lược khuyến khích các nhà khoa học và doanh nghiệp ra nước ngoài học hỏi kinh nghiệm, đó không phải là mất mát, mà là cách để hội nhập và nâng tầm.

Việc người Việt làm việc ở Mỹ, Singapore, hay các nước phát triển cần được nhìn nhận như một phần của chiến lược toàn cầu hóa nguồn lực, chứ không hẳn là “chảy máu”.

Dù vậy để rút ngắn giai đoạn phát triển và phát huy tối đa nội lực, Việt Nam cần những chính sách đột phá. Trong thời gian vừa qua, Trung ương đã ban hành“bộ tứ chiến lược”, bao gồm Nghị quyết 57 về phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, Nghị quyết 68 về phát triển doanh nghiệp, chủ trương hội nhập quốc tế và cải cách thể chế hành chính. Đây là những chính sách mang tính nền tảng, như đường băng về thể chế để doanh nghiệp Việt có thể “cất cánh”.

Với kinh nghiệm và quan sát thực tiễn, tôi tin rằng việc chúng ta ban hành đồng bộ “bộ tứ chiến lược” sẽ giúp đất nước phát huy nội lực, tận dụng hiệu quả ngoại lực, tạo ra động năng mới và điều kiện phát triển mới cho doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Niềm tin ấy là niềm hy vọng lớn, mở ra không khí phát triển tích cực, tạo ra vận hội mới cho đất nước, góp phần kiến tạo tương lai thịnh vượng, tự chủ và đổi mới sáng tạo hơn trong thời gian tới.

+ Xin cảm ơn ông!

    Nổi bật
        Mới nhất
        Thu hút đầu tư vào khởi nghiệp sáng tạo: Phát huy nguồn lực trí tuệ từ nhân dân
        • Mặc định

        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO